Cuối năm 1287, nhà Nguyên lại xua quân sang xâm lược nước Đại Việt lần thứ ba. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Hưng Đạo rằng: Năm nay đánh giặc thế nào? Trần Hưng Đạo bình tĩnh đáp rằng: Năm nay thế giặc nhàn.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Hưng Đạo sinh năm 1232 và mất năm 1300. Ông còn có tên gọi khác là Hưng Đạo Vương và tên thật của ông là Trần Quốc Tuấn. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất và là nhà văn lớn của dân tộc với áng hùng văn lưu danh thiên cổ – “Hịch tướng sĩ”.
Trần Hưng Đạo là con trai của An Sinh vương Trần Liễu. Ông gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột. Công chúa Thụy Bà (tức chị ruột của vua Trần Thái Tông đồng thời là là cô ruột ông) là mẹ nuôi. Nguyên quán ông ở xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay.
Cũng theo sách trên mô tả, ông là người có “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người” và nhờ “được những người tài giỏi đến giảng dạy” mà sớm trở thành người “đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ song toàn”.
Tiếc rằng trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” không nói rõ Trần Hưng Đạo trở thành võ quan của nhà Trần lúc nào, mà theo các tư liệu lịch sử khác thì vào tháng Chín năm Đinh Tỵ – 1257, ông giữ quyền “tiết chế” để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông lần thư nhất. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn chép:
– Tháng 9 năm Đinh Tỵ (1257), vua Trần Thái Tông xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới phía Bắc theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn.
Sau khi đánh lui được quân Nguyên Mông lần đầu vào năm 1258, tháng Mười năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự. Tháng Tám năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay) và đọc bài “Hịch tướng sĩ” nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ ở nơi hiểm yếu.
Đầu năm 1285, tức 27 năm sau, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía Bắc và vùng Thanh Hóa – Nghệ An. Để bảo toàn lực lượng, ông đã cho thực hiện kế sách “thanh dã” (vườn không nhà trống). Ông đã cùng toàn bộ quân sĩ và triều đình rời bỏ kinh thành Thăng Long. Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Khi ấy, vua Trần Thánh Tông lo ngại trước thế giặc và đã vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Không một chút chần chừ, ông đã khảng khái trả lời: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần đi đã.
Sau một thời gian né tránh sức mạnh của quân giặc, năm 1285, ông vạch kế hoạch tổng phản công và chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với quân giặc tại các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,… quân dân nhà Trần đã đánh tan đội quân Nguyên Mông, giải phóng đất nước.
Cuối năm 1287, nhà Nguyên lại xua quân sang xâm lược nước Đại Việt lần thứ ba. Vua Trần Nhân Tông hỏi ông rằng:
– Năm nay đánh giặc thế nào? Trần Hưng Đạo bình tĩnh đáp rằng: Năm nay thế giặc nhàn.
Khi đoàn thuyền vận chuyển lương thực của quân giặc bị tiêu diệt ở bến Vân Đồn, chủ tướng là Hoàng tử Thoát Hoan phải rút lui, ông bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư năm Mậu Tý (1288). Thoát Hoan nghe tin đội quân thủy đã vỡ tan, liền dẫn tàn quân tháo chạy về nước, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5 đến 8 phần. Bản thân Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh không bị trúng tên của quân sĩ nhà Trần rồi tìm đường trốn chạy về nước.
Lời bàn:
Theo sử cũ, cuộc đời và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo với những chiến thắng lẫy lừng đã khẳng định ông là một đại tướng tổng chỉ huy thiên tài. Với ông, khi “dụng binh không những biết đợi thời, mà còn biết thừa thế tiến thoái”, đặc biệt là ở ông có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ. Chính từ lòng tin này mà ông đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng. Đó là kế sách “thanh dã” (vườn không nhà trống) và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa “hương binh” (nông dân cũng là chiến sĩ) và quân chính quy của triều đình để thực hiện những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối với cả cuộc chiến chống quân xâm lược, như chiến dịch ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, Bạch Đằng… Và cũng chính những chiến thắng oai hùng này đã làm cho tên tuổi của ông trở thành bất tử.
Từ giai thoại trên cho thấy Trần Hưng Đạo là một công thần suốt đời tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất (tướng sĩ một lòng phụ tử – Hịch tướng sĩ), là tinh thần yêu thương dân. Và lời nói của ông trước khi mất với vua Trần Anh Tông là một minh chứng hùng hồn cho điều này: Việc khoan thư sức dân đều là để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy. Với lời này, ông đã trở thành thánh của muôn đời dân đất Việt.