Hai lần đi sứ nhà Minh
Dương Trí Trạch (1586 – 1662), người làng Sơn Huy, xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc nay là xã Khánh Vĩnh Yên (Can Lộc, Hà Tĩnh). Tổ tiên ông vốn ở Nghệ An, đời cụ Phúc Minh di cư đến huyện Thiên Lộc.
Dương Trí Trạch thi đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 20 (1619) đời vua Lê Kính Tông, sau đó ông tham gia chính sự và làm quan đến chức Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo.
Theo các nguồn sử liệu để lại, ông nội của Dương Trí Trạch là Dương Trí Dụng từng đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa, sau làm đến chức Tả thị lang Binh bộ. Thân phụ của ông là Dương Trí Thân, cũng làm quan to, trải đến chức Tả thị lang Công bộ. Dương Trí Trạch xuất thân từ dòng họ có truyền thống hiếu học và khoa bảng nên ông có điều kiện tiếp xúc với khoa cử từ rất sớm.
Khoa thi Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 20 (1619), Dương Trí Trạch là một trong 7 Tiến sĩ trong số vài nghìn thí sinh tham gia ứng thí. Sử sách ghi nhận, sau hơn 40 năm phụng sự đất nước (từ năm 1620 đến năm 1661), nắm giữ nhiều chức vụ khác nhau trong triều đình nhà Lê, Dương Trí Trạch đã có đóng góp lớn.
Dương Trí Trạch đã có nhiều đề nghị nhằm ổn định tình hình đất nước, khi hai lần dâng sớ tâu vua, lập mưu đánh giặc, tạo mối hòa hiếu giữa Đàng Ngoài với Đàng Trong và dâng sớ đề nghị cần chấn chỉnh việc cai trị đất nước, thu phục nhân tâm trọng dụng nhân tài.
Đồng thời, kiên quyết trừng trị những kẻ nhũng nhiễu hạch sách dân. Là một quan văn, song ông từng có lần cùng Tây Quận công Trịnh Tạc đi đánh dẹp ở Cao Bằng, góp phần bảo vệ biên cương phía Bắc và ổn định chính trị đất nước.
Trong ngoại giao, Dương Trí Trạch được vua Lê Thần Tông cử làm Chánh sứ lãnh trách nhiệm đi sứ sang Yên Kinh vào năm Canh Ngọ (1630). Chuyến đi sứ trong vòng 3 năm đã thu được kết quả, hoàn thành trọng trách triều đình giao phó. Năm 1638, sứ thần Giang Văn Minh bị nhà Minh hành hình, ngay sau đó là đoàn sứ bộ do Dương Trí Trạch làm Chánh sứ tiếp tục đi sứ Yên Kinh để nối lại mối giao hảo.
Đặc biệt trong giáo dục, Dương Trí Trạch để lại nhiều dấu ấn. Bối cảnh lịch sử giữa thế kỷ 16, khi nhà Lê bị nhà Mạc thay thế vào năm 1527, phải lui vào vùng Yên Trường, Thanh Hóa lánh nạn, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng nhà Lê vẫn tổ chức khoa thi Điện (tức Chế khoa) đầu tiên vào năm 1554 để tuyển chọn nhân tài. Đến năm 1592, sau khi chiếm lại được Thăng Long từ nhà Mạc, nhà Lê tổ chức các kỳ thi đều đặn hơn.
Đến khoa thi Quý Mùi (1643), Dương Trí Trạch được cử làm Giám thí. Theo văn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Tiến sĩ Dương Trí Trạch được triều đình giao trọng trách tổ chức 3 kỳ thi đại khoa để tuyển chọn nhân tài gồm: Khoa thi Quý Mùi (1643), khoa thi năm Bính Tuất (1646) và khoa thi năm Nhâm Thìn (1652).
Trong 3 kỳ thi ấy, Dương Trí Trạch được một lần giữ nhiệm vụ là Giám thí và hai lần được giao làm Tri Cống cử. Trong cả ba khoa thi nêu trên, Dương Trí Trạch đề cao trách nhiệm tôi giỏi, giúp triều đình tuyển lựa 35 Tiến sĩ. Trong số những vị đại khoa được tuyển chọn, không ít người trở thành những bậc hiền tài của triều đình.
Trăm năm khoa cử hội tụ trong 25 văn bia
Đáng chú ý, thời Lê trung hưng việc thi cử đã được tổ chức đều đặn, tuy nhiên từ năm Thuận Bình thứ 6 (1554) đến năm Khánh Đức thứ 4 (1652) triều Lê đã tổ chức được 25 khoa thi, nhiều người đỗ đạt nhưng chưa được dựng bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Do đó, sau hơn 100 năm gián đoạn do chiến tranh và các cuộc biến loạn bất ổn, thì nhà Lê mới tiến hành một đợt dựng bia Tiến sĩ lớn nhất tại Văn Miếu, công việc trọng đại này đã được triều đình giao cho Dương Trí Trạch.
Với trọng trách được giao, Dương Trí Trạch đã ra sức sưu tầm tư liệu các khoa thi, sao lục tên họ những người thi đỗ Chế khoa kể từ năm 1554 đến năm 1652. Không chỉ là người chịu trách nhiệm với danh sách Tiến sĩ các khoa thi để khắc bia, ông cũng là người tổng duyệt tất cả bia khắc dựng trong đợt truy lập này. Vì thế, hầu hết lời khắc trên bia đều do ông sắc nhuận, khảo đính, chú giải.
Cụ thể, trong bài Ký Bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1592), Dương Trí Trạch đã sắc nhuận một văn bia có đoạn như sau: “Bề trên đặt khoa thi cốt để thu hút nhân tài, đâu phải để trông vào cho đẹp mắt. Kẻ dưới đăng tên dự thi là để theo bậc thang mà bước lên đường huân nghiệp, đâu phải để mưu cầu danh lợi. Bởi nền chính sự tốt đẹp của quốc gia không có nhân tài thì không thể gây dựng được mà kẻ hào kiệt ắt phải do khoa cử thì mới có dịp tiến thân”.
Người sắc nhuận văn bia, bài ký để khắc tại Văn Miếu phải là người thực tài mới sửa sang được ý tứ, câu từ của các bài ký, qua đó cho thấy được giá trị tư tưởng của các tác gia và thời đại.
Dương Trí Trạch là người đã dày công sưu tầm hồ sơ, rà soát thông tin về 25 khoa thi, họ tên, quê quán, thứ bậc đỗ của 218 vị Tiến sĩ trong gần một thế kỷ để các quan Công bộ và những người thợ khắc chữ chạm đá, trang trí rùa bia cùng thi hành công việc một cách chính xác nhất.
Với 25 văn bia được khắc dựng, người nay có thể hình dung phần nào công lao của Dương Trí Trạch đối với nền giáo dục và khoa bảng của đất nước. Đây là một đóng góp quan trọng làm cho hệ thống bia Tiến sĩ không chỉ là một công trình văn hóa hoàn chỉnh mang nhiều giá trị, mà còn có ý nghĩa khích lệ tinh thần hiếu học cho sĩ tử đương thời cũng như hậu thế.
Vua ban bia đá vinh quy hồi hương
Theo tìm hiểu, 25 tác phẩm văn bia do Tiến sĩ Dương Trí Trạch sắc nhuận và phục dựng được ghi chú vào ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 1 (1653). Trong 25 văn bia mà Tiến sĩ Dương Trí Trạch có trách nhiệm sắc nhuận, chỉnh lý, bổ sung hoàn thiện và để thấy rõ hơn về tư tưởng cũng như văn ngôn của ông, dưới đây xin lược trích đoạn văn bia số 22 mang ký hiệu No.1307 – “Phúc Thái nguyên niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký” (Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái năm thứ 1 (1643):
“Đời mở nền trí trị, vận thuộc thời yên bình. Kính nghĩ: Thái Tổ Cao hoàng đế thánh triều, trời ban trí dũng, từng trải kinh luân, xua hết loài cọp beo, giữ cho dân yên ổn, việc đầu dựng trường học nuôi dưỡng nhân tài thiên hạ.
Liệt thánh hoàng đế kế thừa thể chế thành pháp, làm sáng rõ quy mô, vun mạch nhân hậu, chỉnh đốn kỷ cương bốn phương, rộng đặt khoa trường để đón bậc tuấn kiệt trong thiên hạ. Buổi bấy giờ khoa mục thịnh hành, văn phong chấn phát, cơ nghiệp thái bình ức vạn năm chính là ở lúc này.
Bỗng chốc ngụy Mạc phạm thượng, nhưng quốc thống như sợi chỉ chưa đứt. May thay mệnh trời chưa đổi, cơ hội trung hưng chính là ở lúc này. Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế kế thừa nghiệp lớn, đều nhờ sức Thế Tổ Minh Khang đại vương giúp cho sáng lại nhật nguyệt đôi vừng.
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, khoa mục là chí công của thiên hạ. Xưa nhà Thành Chu lập trường quốc học là cách để lấy hiền tài, đã có tuyển Tiến sĩ, đó là khởi đầu. Về sau, nhà Đường cho Tiến sĩ là bảng Long hổ, nhà Tống cho Tiến sĩ là khoa Tướng tướng. Thế đủ biết việc đặt khoa mục đã có từ lâu vậy.
Đến nay Hoàng thượng bệ hạ ở ngôi vua, nắm cơ tạo tác, làm chấn phát lớn Nho phong, mở mang phô bày văn giáo. Cho nên nhân tài nối nhau xuất hiện làm bậc danh thần của nước nhà.
Còn như khoa thi này là khoa đầu tiên của niên hiệu Phúc Thái, được nhiều nhân tài, làm vẻ vang hơn đời trước. Nay dựng bia đá một lần mà truyền tới lâu dài, đạo tác thành nhân tài, cách khích lệ kẻ sĩ há chẳng rõ ràng, đầy đủ lắm sao?”.
Qua những tư liệu trên đã phác họa nét chính về những đóng góp của Tiến sĩ Dương Trí Trạch đối với nền giáo dục. Tuy chưa thực sự phong phú đa dạng, song đã phản ánh khá rõ tư tưởng và những đóng góp nổi bật của ông.
Sau hơn 40 năm tham gia chính sự, Bạt Quận công Dương Trí Trạch về trí sĩ, tháng 6 năm Tân Sửu (1661) ông được vua Lê Thần Tông gia phong: “Hộ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị giảng chưởng Hàn Lâm viện sự, Thiếu bảo Bạt Quận công Dương Trí Trạch làm Lại bộ Thượng thư Quốc lão Thái tể”.
Đồng thời, nhà vua tặng ông đôi câu ca ngợi như sau: “Tứ thập niên lập triều, triều đình ý trọng/ Thất thập tuế trí sĩ, sĩ hoạn thành danh” (Bốn chục năm ở triều, triều đình trọng dụng/ Bảy chục tuổi về hưu, đỗ đạt làm quan đều nổi tiếng).
Ngoài ra, Dương Trí Trạch còn được nhà vua cho khắc một bia đá vinh quy hồi hương. Văn bia do nhà vua viết tặng ghi nhận công lao đóng góp cho triều đình trong những năm ông làm quan.
Tấm bia được tạc theo mẫu ở Văn Miếu và soạn lời bia đề năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), hai mặt bia khắc chữ Hán ca ngợi công lao sự nghiệp của ông. Tuy nhiên, dưới thời vua Minh Mạng triều Nguyễn những nơi có thờ tự bia đá thời Lê – Trịnh phải mài đục bỏ, do đó dòng họ Dương đã cho đục mài hết chữ nên không còn nội dung của bài văn bia này.
Một năm sau khi về quê, năm Nhâm Dần (1662) Dương Trí Trạch qua đời, thọ 77 tuổi. Theo hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa, thì đền thờ Dương Trí Trạch được xây dựng tại thôn Thạch Ngọc, xã Khánh Vĩnh Yên.
Trải qua thời gian, đền thờ đã có 4 lần trùng tu, thượng điện được trùng tu năm 1924, hạ điện trùng tu năm 1942, hiện nay diện tích còn 955,1m2. Đền thờ có kiến trúc kiểu chữ Nhị quay mặt về hướng Nam.
Đền thờ còn lưu giữ được các hiện vật gốc như: Bia đá, bài vị, cờ lọng, nghi trượng, gươm đao, câu đối. Đền thờ Tiến sĩ Dương Trí Trạch được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia vào năm 2020.
Sự nghiệp của nhà khoa bảng Dương Trí Trạch được sử gia Phan Huy Chú đánh giá: “Ở triều hơn 40 năm, trải qua các chức vụ ở viện Khu mật đã lâu, tính thẳng thắn giữ luật phép, không có ai thỉnh thác được (nhờ vả việc riêng); bàn việc gì tuy hơi nghiêm khắc nhưng theo lẽ công bằng giữ điều ngay thẳng, bấy giờ ai khen cũng là danh thần”. Ghi nhận công lao của ông đối với triều đình, vua Lê đã ban sắc phong: “Hồng nho Thạc đức, nguyên lão đại thần” (Núi Hồng sinh ra người có công đức cao, vị đại thần cao tuổi đứng đầu quan triều đình).
Trần Siêu (Theo GD&TĐ)