Cuối thời Trần, danh y Tuệ Tĩnh bị sung vào đoàn đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Sang đó tương truyền cụ đã có công lớn trong việc chữa khỏi bệnh cho hoàng hậu rồi bị triều đình phương Bắc giữ lại không cho về nước.
Tấm bia mộ linh thiêng
Tương truyền Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho người cùng làng Nghĩa Phú làm quan Tả thị lang Bộ Lại thời Lê – Trịnh được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc năm 1690. Trên đường về vào năm 1691, duyên may ông đã tìm được phần mộ Tuệ Tĩnh tại một địa điểm thuộc vùng Giang Nam. Theo truyền ngôn, ông Nguyễn Danh Nho cho biết mặt trước bia ghi danh Tuệ Tĩnh, mặt sau có lời nhắn gửi: “Ngày sau có ai người nước Nam qua đây, xin đưa hài cốt tôi về với!”.
Song việc đưa hài cốt người đồng hương về nước gặp nhiều trở ngại, có lẽ vì đang thực thi công vụ sứ thần hoặc do triều đình phương Bắc không cho, nên ông chỉ làm được việc dập in sao chữ từ hai mặt tấm bia rồi mang về nước. Ông nhờ thợ đá dựng tấm bia cùng khắc chữ theo đúng như khuôn mẫu. Thuyền chở tấm bia đi theo đường sông Thái Bình về đến bến Văn Thai rẽ vào con ngòi đến đầu làng Nghĩa Phú thì trời đã tối, bỗng nổi lên cơn mưa to gió lớn làm đắm thuyền, phải hôm sau mới mò vớt bia lên được. Cho rằng có sự ứng nghiệm linh thiêng vì nơi đây địa thế đầu làng có doi đất hình con dao cầu thái thuốc và hai ao nhỏ là ao thuốc, dân làng Nghĩa Phú đồng tâm dựng lên một ngôi miếu nhỏ để thờ bia cũng là thờ vong linh Tuệ Tĩnh.
Tấm bia an bài phía sau tượng Tuệ Tĩnh trong khám thờ bằng gỗ sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Tấm bia là một khối đá xanh hình trụ, chiều cao kể cả chóp 72 cm, chiều rộng 58 cm, dầy 20 cm, nhưng tất cả chữ khắc trên bia đều đã bị đục phá mài mòn, không thể đọc được. Nguyên do vào năm 1846 thời vua Thiệu Trị triều Nguyễn, trong dân gian loan tin Tuệ Tĩnh đã hiển thánh, thuốc nam tại Đền Bia có phép màu cứu nạn chữa khỏi bách bệnh cho dân. Người khắp nơi nườm nượp kéo về xin thuốc, cúng bái đông như trẩy hội.
Vua Thiệu Trị cho là chuyện mê tín hoang đường, có thể còn lo dân chúng tụ tập đông người gây bạo loạn nên ra lệnh cho quan Án sát Hải Dương tịch thu tấm bia, mài xoá hết chữ, đem giam vào nhà lao cùm xích như một tù nhân!
Thời gian sau, một lính canh ngục là người tổng Văn Thai đã bí mật tháo cùm lấy trộm tấm bia đem về trả cho làng Nghĩa Phú để tiếp tục thờ cúng. Dân làng Nghĩa Phú và tổng Văn Thai góp nhiều công của xây dựng ngôi đền khang trang hơn, đúc tượng thờ Tuệ Tĩnh và thờ bia đá dù đã tổn thương nghiêm trọng. Cường quyền bạo ngược đã không thắng nổi đức tin và lòng ngưỡng mộ của dân chúng đối với Tuệ Tĩnh-người có tâm Phật và tài năng của một vị thánh y. Chính nhân dân đã phong thánh và tôn thờ Đại danh y – Thiền sư Tuệ Tĩnh suốt trong chiều dài lịch sử.
Những đặc sắc trong sự nghiệp y học của Tuệ Tĩnh
Sự nghiệp y học của Tuệ Tĩnh cần tiếp tục có những dự án nghiên cứu khoa học và ứng dụng thực tiễn để xứng tầm với những cống hiến của cụ. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ xin điểm qua một vài nét lớn. Tuệ Tĩnh đã tổng kết đánh giá y học dân tộc trên hai phương diện thực tiễn và lý luận qua hai bộ sách: “Hồng nghĩa giác tư y thư” (chữ Hán) và “Nam dược thần hiệu” (viết bằng chữ quốc âm tức chữ Nôm của dân tộc). Qua hai bộ sách ta thấy, Tuệ Tĩnh là người có kiến thức thâm hậu về đông y, trải nghiệm già dặn trong việc chữa bệnh, cụ chắt lọc nên 13 phương thuốc căn bản nhất gọi là thập tam phương gia giảm. Đây là những phương thuốc đơn giản phần nhiều là những vị thuốc sẵn có nơi bản địa phù hợp với tình trạng bệnh tật bốn mùa. Các bài thuốc này đủ sức biến hoá theo tinh thần bát pháp của đông y. Tuệ Tĩnh chữa bệnh là kết hợp của nhiều phương pháp từ thuốc uống, châm chích, chườm… đến dưỡng sinh.
Tuệ Tĩnh luôn hướng tới tinh thần “Nam dược trị Nam nhân” (thuốc nam chữa bệnh cho người Nam). Cụ đã sưu tầm hàng trăm cây thuốc nam cùng hàng ngàn phương thuốc cho 10 khoa chữa bệnh tổng hợp, điều trị 184 loại bệnh. Nhiều phương thuốc dễ kiếm, tận dụng dược lực của cả động vật, khoáng vật. Nay tìm hiểu lại ta còn thấy rất bất ngờ, chẳng hạn bài “Thiên khai hoàn”, ngoài những thảo dược gần gũi còn có các con vật bản địa như cua đồng, giun đất, bọ hung, xác rắn… Theo cụ Tuệ Tĩnh, đây là bài thuốc chữa phong thấp rất hay của nước ta.
Bài thuốc bổ dưỡng “Phù tang chí bảo” chỉ có các vị: lá dâu bánh tẻ, vừng đen, hai vị sấy khô tán bột luyện mật ong làm hoàn uống lâu có tính cải lão hoàn đồng. Cụ lại sưu tầm thử nghiệm các món ăn mang tính dược từ các vật nuôi như lợn, gà, vịt đến các loại chim, cá… Cụ chỉ rõ tính vị tác dụng của từng loại, ở một vị nào đấy phải xử lý thế nào để tránh độc tính. Tuệ Tĩnh viết “Phú thuốc nam” là cách tuyên truyền cho người dân dễ học dễ nhớ. Cụ hào sảng ca ngợi công dụng của các vị thuốc nam, thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên cây cỏ nước Việt, hướng tới mục tiêu độc lập về mặt dược liệu, ý thức độc lập tự cường trong việc xây dựng nền y học dân tộc.
Cụ cũng là người đầu tiên nêu phương pháp dưỡng sinh. Bài thơ viết bằng chữ quốc âm cô đúc ở hai câu: “Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần/Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”. Ta thấy rất phù hợp với khoa học hiện đại đồng thời chứa đựng cả tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo.
Có thể nói, Tuệ Tĩnh là đỉnh cao của học vấn, trí tuệ thời đó. Tuệ Tĩnh đã xây dựng được 24 ngôi chùa, đào tạo hàng nghìn đệ tử, mượn chốn thiền môn làm nơi chữa bệnh cho dân. Tài đức của Tuệ Tĩnh toả rạng, vì thế nhà Minh đã yêu cầu vua Trần phải cống nạp vàng bạc cùng nhiều người tài giỏi của nước Việt, trong đó có Tuệ Tĩnh. Tương truyền đến Bắc quốc, cụ đã chữa khỏi bệnh cho hoàng hậu nhà Minh. Chắc chắn Tuệ Tĩnh còn chữa bệnh cho nhiều người từ các quan trong triều đến người dân nghèo. Theo một nhà nghiên cứu, Tuệ Tĩnh được người dân Trung Quốc suy tôn là Hoa Đà nam, ý nói sánh ngang cùng Thần y Hoa Đà thời Tam quốc.
Triều đình nhà Minh cứ muốn khai thác mãi, giữ Tuệ Tĩnh ở lại không cho về. Song ta hiểu cũng không hiếm những kẻ đố kỵ ghen ghét. Ở Trung Quốc, 3 ngôi chùa ở 3 nơi có ban thờ Tuệ Tĩnh là chùa Phổ Đà (Phúc Kiến), chùa Thê Đà (Nam Kinh) và một chùa ở tỉnh An Huy. Tuệ Tĩnh xứng đáng là một trong những vị Y tổ của nước Việt, một trong những người đầu tiên mở đường cho nền y học cổ truyền Việt Nam. Nam dược trị Nam nhân – tư tưởng của Tuệ Tĩnh tiếp tục đánh thức thời đại chúng ta, phải xây dựng một nền dược liệu dân tộc độc lập và hiện đại.
Văng vẳng di nguyện về cố hương của Tuệ Tĩnh
Có thể suy đoán thời gian bị nhà Minh giữ lại ở Trung Quốc, Tuệ Tĩnh đã tìm đến các chùa ở nhiều địa phương để tu hành và chữa bệnh cho dân. Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho trên đường đi sứ trở về phát hiện ra phần mộ Tuệ Tĩnh khi cụ đã qua đời trước đó gần 300 năm. Đến nay đã qua hơn 600 năm lời nhắn gửi thiết tha của Đại danh y Thiền sư Tuệ Tĩnh khiến không chỉ các tăng ni, người trong ngành y tế hay quê hương Cẩm Giàng mà mọi người chúng ta đều xót xa, thương cảm! Ai cũng mong có ngày tìm được và đưa phần mộ Tuệ Tĩnh về quê hương.
Người duy nhất biết mộ Tuệ Tĩnh ở đâu là tiến sĩ Nguyễn Danh Nho nhưng ông chỉ để lại thông tin địa chỉ mộ Tuệ Tĩnh ở Giang Nam. Có một cách hiểu Giang Nam là vùng đất phía nam sông Trường Giang ngày nay, bao gồm nhiều tỉnh thành rộng lớn. Song có nguồn thông tin cho biết, có một huyện Giang Nam thuộc TP Nam Ninh (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc). Có thể như vậy chăng, Tuệ Tĩnh có ý tu hành và chữa bệnh dịch dần về phương Nam để tìm đường về nước Việt?
Năm tháng cuối đời do già bệnh biết phải nằm lại xứ người, cụ đã thuê người khắc vào bia đá lời di nguyện của mình. So với những nơi có lưu dấu thờ Tuệ Tĩnh thì nơi này là gần nước ta hơn cả. Có thể đây là địa chỉ mà chúng ta hướng đến đầu tiên. Tuy nhiên, cái tên huyện Giang Nam thuộc TP Nam Ninh biết đâu lại không có từ thời ấy?
PV (Theo Báo Hải Dương)