Lê Hiến Tông: Anh minh thông tuệ, 7 năm thiên hạ thái bình

Lịch Sử

Lê Hiến Tông trị vì 7 năm nhưng là ông vua cuối cùng của triều Lê Sơ còn giữ được những thành tựu từ thời Thái Tổ gây dựng. Trong thời gian này, đất nước yên ổn không loạn lạc.

Lê Hiến Tông (1461-1504) là vua thứ 6 nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, tại ngôi từ năm 1497 đến 1504. Vua có tên húy là Lê Tranh, còn có tên khác là Huy, là con trưởng của vua Thánh Tông, sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461). Mẹ là Trường Lạc Thánh Từ Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng, người ở hương Gia Mưu ngoại trang, huyện Tống Sơn (Thanh Hóa), con gái thứ hai của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung.

Lê Tranh là con cầu tự ở am Từ Công (Từ Đạo Hạnh) trên núi Phật Tích, sinh ra dáng vẻ thiên tử, mũi cao, mặt rộng, vẻ người đứng đắn, đẹp đẽ khác thường, được Thánh Tông yêu quý lắm. Năm Quang Thuận thứ 3 – năm Nhâm Ngọ (1462), Tranh được lập làm Hoàng thái tử.

Lê Hiến Tông: Anh minh thông tuệ, 7 năm thiên hạ thái bình - Ảnh 1.

Tranh vẽ vua Lê Hiến Tông. Ảnh: ICT.

Vua cha tại ngôi tới 38 năm nên Thái tử ở ngôi Đông cũng lâu (37 năm), vì thế khi được lên nối ngôi, ông đã ở tuổi chín chắn và từng trải. Trong thời gian 7 năm cầm quyền, vua Lê Hiến Tông không mấy sáng tạo so với triều vua trước. Trước một vua cha là ngôi sao sáng chói thì ông chỉ nhận mình là người đi sau. Vả chăng chính vua Hiến Tông đã từng nói:

Thánh tổ ta đã gây dựng nên cơ đồ, vua cha ta đã sửa sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ và mở mang sự nhân chính ra cho sáng rõ công đức của ông cha ngày trước.

Sử gia Vũ Quỳnh, người gần cùng thời nhận xét: Vua thông minh, trí tuệ hơn người mà nhân từ, ôn hòa, không làm nghiêm trọng sự việc lâu. Thường khi tan chầu lui vào, lại đem các sĩ đại phu hỏi về chính sự hay dở, lấy lời nói dịu dàng, nét mặt vui tươi dỗ cho nói ra, cho nên biết hết tánh người dưới, phá hết sự che lấp. Kẻ thần hạ có lầm gì, chỉ răn quở qua loa, không nỡ đánh roi làm nhục. Cách cai trị nhàn hạ ung dung, chưa từng lộ ra lời nói, sắc mặt tức giận mà thiên hạ răm rắp theo lệnh.

Ông là người chú trọng đặc biệt đến việc làm thủy lợi, chăm sóc bảo vệ đê điều, đường sá. Mỗi xã cho đặt một xã trưởng chuyên trông coi việc nông trang. Cũng dưới thời vua Lê Hiến Tông, ông cho phép quân đội và công tượng thay phiên nhau tháng 6, tháng 10 chia một nửa về làm ruộng: Ông cũng chú tâm đến giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng…

Lê Hiến Tông trị vì 7 năm nhưng là ông vua cuối cùng của triều Lê Sơ còn giữ được những thành tựu từ thời Thái Tổ gây dựng. Trong thời gian này, đất nước yên ổn không loạn lạc.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” nhận xét về Lê Hiến Tông:

“Vua có thiên tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữa cơ đồ, thế mà ở ngôi không lâu, tiếc thay”.

Lê Hiến Tông cũng là ông vua đầu tiên của triều Lê có hướng trở về với đạo Phật: Ông cho xây dựng các điện Thượng Dương, Giám Trị, Đỗ Trị, Trường Sinh làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách và ăn chay. Tuy nhiên ông cũng không tránh được lời phê của sử thần là đã ham nữ sắc quá nhiều để đến nỗi bị bệnh nặng.

Ông mất ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tý (1504), thọ 44 tuổi. Thụy hiệu do Lê Túc Tông đặt cho ông là Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thành Chương Hiếu Duệ hoàng đế.

Lê Hiến Tông có 6 hoàng tử, con trưởng là An Vương Tuân, con thứ hai là Uy Mục Đế Tuấn, con thứ ba là Tự Hoàng Thuần, con thứ tư là Thông Vương Dung, con thứ năm là Minh Vương Trị và con thứ 6 là Tư Vương Dưỡng.