Đầu năm 1285, trong khi tại Thăng Long các bô lão đồng thanh hô “Đánh”, thể hiện ý chí bất khuất của toàn dân thì ngoài biên cương quân giặc cũng đã ồ ạt tiến sang. Quân dân Đại Việt lại cùng nhau diệt giặc cứu nước.
Hướng tiến công chính của quân Nguyên là ở biên thùy phía đông bắc, nơi Lạng Châu (Lạng Sơn ngày nay) của Đại Việt tiếp giáp Ung Châu của nước Nguyên. Vừa đặt chân vào lãnh thổ Đại Việt, trở ngại đầu tiên của quân Nguyên chính là các cửa ải. Đó là những cứ điểm phòng thủ thường đặt nằm ở các con đường núi, hai bên là vách núi cao. Địa thế vùng Lạng Giang có rất nhiều nơi có thể đặt cửa ải. Tại các ải, thông thường các bên tham chiến không thể điều động được binh lực lớn, quân giữ ải có thể lấy ít địch nhiều. Quân công phá ải chỉ có thể chia làm từng tốp quân nhỏ tiến đánh. Lớp này chết thì lớp khác lên thay. Quân Đại Việt tận dụng tối đa địa thế hiểm yếu của các cửa ải. Tất nhiên không thể hoàn toàn cản bước của giặc, nhưng có thể làm tiêu hao lực lượng của giặc ở mức độ cao nhất.
Ải Lộc Châu là cửa ải đầu tiên mà quân Nguyên tiến đánh. Với binh lực hùng hậu, quân Nguyên nhanh chóngchiếm được ải này. Không có ghi chép về việc có giao chiến tại đây, có thể quân Đại Việt đã chủ động rút trước do vị trí của ải Lộc Châu nằm quá trơ trọi ngoài biên giới. Thoát Hoan tại Lộc Châu đã chia quân làm hai mũi tiên phong đánh mạnh vào các cửa ải khác của quân ta. Mặc dù tương quan lực lượng ban đầu rất chênh lệch, các cụm quân giữ ải của Đại Việt đã dũng cảm chiến đấu, buộc địch phải trả giá đắt ngay khi chúng vừa đặt chân vào lãnh thổ nước ta.
Tại các ải Khâu Ôn, Khâu Cấp, Thất Nguyên, Thiết Lược, Vĩnh Châu, Khả Ly đều đã diễn ra những trận quyết chiến đẫm máu. Tại Thất Nguyên, quản quân Nguyễn Nộn giao chiến với cách tiên phong phía tây do Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ cùng A Thâm chỉ huy, quân ta ít không địch nổi nhiều, dù chống trả kiên cường nhưng rốt cuộc phải lui. Quan quân ta chặn giặc ở ải Khâu Cấp, cánh quân tiên phong phía đông của Nguyên Mông do tướng Tản Tháp Nhĩ Hải và Lý Bang Hiến chỉ huy tấn công liên tiếp ba đợt đều không phá được ải, chết trận rất nhiều. Nhưng ở phía khác, ải Khả Ly bị vỡ, quản quân Đỗ Vĩ, Đỗ Hựu bị bắt nên quân các ải khác phải lui binh vào rừng núi hay rút về hậu tuyến để tránh bị giặc đánh bọc hậu.
Quan quân Đại Việt rút về thủ ải Chi Lăng, Động Bản. Bọn Tản Tháp Nhĩ Hải, Lý Bang Hiến tấn công ải Động Bản, tướng Tần Sâm của Đại Việt cùng quân lính tử chiến cho đến chết. Thoát Hoan dẫn đại quân Nguyên tiến theo sau cánh tiên phong phía đông vào ải, kéo nhau đến đóng ở thôn Biến Trú và phụ cận, chuẩn bị công phá đại doanh của quân Đại Việt do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy trấn giữ. Trong khi đó, cánh tiên phong phía tây dưới quyền Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ, A Thâm sau khi qua ải Thất Nguyên thì tiến một mạch đến ải Khâu Ôn,quân Đại Việt ở đây kiên trì phòng thủ khiến cho quân Nguyên không tiến được. Bấy giờ tại ải Nội Bàng (thuộc Bắc Giang), là nơi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng đại doanh, đích thân vị Quốc công Tiết chế đã sẵn sàng nghênh chiến.
Thoát Hoan thắng liền mấy trận đầu, sai người đem thư dụ hàng Hưng Đạo vương, hiển nhiên là không có kết quả. Hưng Đạo vương dựa vào quân tinh, lũy chắc dự định sẽ quyết chiến với giặc tại Nội Bàng. Nhưng quân Nguyên binh nhiều tướng mạnh, lại có nhiều kẻ trong trướng tinh thông binh pháp. Ngày 2.2.1285, Thoát Hoan chia quân làm 6 cánh, tấn công làm nhiều hướng, tập dụng được triệt để lợi thế về quân số. Hưng Đạo vương ít quân, phải chia ra chống cự nhiều mặt rất vất vả. Tuy vậy quân Đại Việt tinh nhuệ và có tinh thần chiến đấu rất cao, cũng chẳng dễ gì để quân Nguyên chiếm thế thượng phong.
Đương lúc giao chiến ác liệt thì được tin ải Khâu Ôn đã vỡ, ải Chi Lăng cũng thất thủ ngay sau đó. Quả thực quân Nguyên lần này không chỉ đông, mà sức chiến đấu còn mạnh mẽ vượt ngoài cả dự kiến của Hưng Đạo vương và triều đình. Trước tình hình đó, Hưng Đạo vương hạ lệnh chia quân làm nhiều tốp, vừa đánh vừa rút lui về bến thuyền ở Bãi Tân (bến thuyền trên sông Lục Nam), rồi toàn quân lên thuyền lui về giữ Vạn Kiếp. Cuộc rút lui này không đơn giản vì giao tranh với quân Thoát Hoan rất dữ dội. Trong lúc thuyền chở quân hầu hết đã rời bến thì vẫn còn một bộ phận lớn quân Đại Việt còn kẹt lại tại chiến trường Nội Bàng, trong đó có cả Hưng Đạo vương. Thoát Hoan tung quân truy kích mãnh liệt khiến cho quân Đại Việt bị tan vỡ lớn, các hiệu quân bị mất liên lạc với nhau, mạnh ai nấy rút, đại liêu bang Đoàn Thai bị giặc bắt, một số chiến thuyền của quân ta cũng bị quân Nguyên cướp được.
Bấy giờ Hưng Đạo vương sợ rằng đến bến sẽ không còn thuyền tất bị giặc bắt, định theo đường núi mà rút lui. Gia tướng Dã Tượng tâu rằng: “Yết Kiêu chưa thấy Đại vương, tất không chịu rời thuyền”. Hưng Đạo vương nghe lời, bèn thúc quân ra Bãi Tân tìm thuyền. Quả nhiên gia tướng Yết Kiêu vẫn neo thuyền ở đó đợi chủ, mặc cho phần đông các đạo thủy binh khác đã rút trước. Hưng Đạo vương trông thấy Yết Kiêu, rất mừng rỡ và cảm phục lòng trung của các gia tướng, nói với mọi người xung quanh rằng: “Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được, tất phải nhờ có sáu cái xương trụ ở cánh, nếu không có sáu cái xương trụ cứng rắn, thì chim hồng hộc cũng như loài chim thường thôi!”(theo Cương Mục).
Nói đoạn, cùng quân bản bộ dong thuyền theo dòng Lục Nam xuôi về Vạn Kiếp. Truy binh giặc đuổi tới bờ sông thì thuyền của Hưng Đạo vương đã giương buồm đi nhanh, không sao đuổi kịp. Chư quân Đại Việt tuy tan vỡ lớn ở Nội Bàng nhưng chỉ bị đánh tan mà không bị tiêu diệt, hầu hết đều tự tìm đường về hội quân tại Vạn Kiếp, quyết không nhụt chí đào ngũ. Hưng Đạo vương lại chia quân ra đóng giữ vùng Bắc Giang (thuộc Bắc Ninh ngày nay).
Vua Trần Nhân Tông ở kinh sư hay tin Hưng Đạo vương thua trận rút lui về Vạn Kiếp, lòng vô cùng lo lắng. Vua ngự thuyền nhỏ cùng hầu cận ra Hải Đông, cho dụ Hưng Đạo vương đến hỏi việc. Thuyền ngự đi gấp không chuẩn bị, đến chiều mà vua vẫn chưa ăn sáng. Người lính cận vệ bèn nấu phần gạo xấu của mình dâng lên vua. Vua gặp Hưng Đạo vương, liền hỏi: “Giặc truyền lời nói đánh để cướp đất, chúng giết người đầy đồng nội. Nay thế giặc như thế, có nên hàng chúng để cứu mệnh cho muôn dân?”. Hưng Đạo vương đáp: “Lời bệ hạ nói ra thật là lời nói cùa bậc nhân giả. Nhưng còn tông miếu xã tắc thì sao? Thần xin trước hãy chém đầu thần rồi sau hãy hàng giặc. Đầu thần nếu còn, xã tắc cũng còn. Xin bệ hạ đừng lo, thần đã có kế đánh bại giặc”.(theo Trần Đại Vương Bình Nguyên Thực Lục, dẫn theo Hà Văn Tấn). Vua bấy giờ mới yên dạ, ngự giá về Thăng Long sửa soạn thủy quân làm hậu viện cho quân của Hưng Đạo vương.
Hưng Đạo vương lấy quyền Quốc Công Tiết Chế, đốc suất các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm lấy thêm quân lính, chọn người dũng cảm làm tiên phong. Các vương hầu từ trước đi tuyển lính ở các xứ miền đông bắc là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện, Minh Hiến vương Trần Uất cũng kịp kéo về hội quân ở Vạn Kiếp. Quân Đại Việt bấy giờ tại Vạn Kiếp đã đông đến hơn 20 vạn người. Mặc dù trong thành phần quân có nhiều tân binh, nhưng với lực lượng mới tập họp rất hùng hậu, khí thế quân Đại Việt lại phấn chấn lên.
(Còn tiếp…)
Quốc Huy (Một Thế Giới)