Việc trai gái quen nhau và dựng vợ gả chồng của người Việt xưa, đặc biệt thời kỳ đầu thế kỷ 19 trở về trước còn mang nặng tư tưởng phong kiến, ảnh hưởng từ nền văn hóa Khổng giáo của Trung Hoa. Khi đó việc hôn sự hầu hết là do sự sắp đặt của gia đình, vì người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”. Tuy nhiên đến khoảng cuối thế kỷ 19, mọi việc có vẻ cởi mở hơn, dù vẫn là “nam nữ thọ thọ bất thân” nhưng trai gái tuổi mới lớn thời xưa đã có quyền tự do được gặp gỡ hẹn hò yêu đương hơn. Điều đó được thể hiện qua những câu ca dao, câu hò điệu hát dân ca cổ truyền để lại, như là “tới đây không hát thì hò, đâu phải con cò ngóng cổ để nghe”, hay là “rủ nhau đi lễ hội đình, trai gái thanh lịch tỏ tình yêu thương”.
Những câu hát xưa này thể hiện rằng xã hội ngày xưa tình yêu nam nữ tuổi trẻ vẫn diễn ra một cách nồng nhiệt và thắm thiết, những mối tình đẹp đẽ mà ca dao đã phản ánh, chẳng hạn những câu thề non hẹn biển: “Dù cho sông cạn đá mòn, Đôi ta vẫn giữ một lòng thương nhau”, hay là “Thương nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”.
Tuy nhiên tất cả những điều này chỉ là trên lý thuyết, có thể bắt gặp ở bất kỳ đâu trong nhiều loại sách vở, nó không mô tả được cụ thể, chi tiết về cái sự gặp gỡ và hôn nhân nam nữ của người Việt ngày xưa. Vì vậy hầu hết chúng ta đều khó có thể hình dung được ông bà chúng ta đã gặp gỡ nhau, yêu nhau và làm đám cưới như thế nào hồi 100-150 năm trước đây.
Trong những năm cuối của thế kỷ 19, bác sĩ J.C Baurac có thời gian 8 năm liên tục sống ở xứ Nam kỳ và thực hiện vô số những đợt tiêm chủng tại đây, vì vậy ông đã có điều kiện quan sắc tập tục, văn hóa của người Việt và ghi ghép lại rất chi tiết trong Bộ sách Nam kỳ và cư dân, vừa được công ty Omega xuất bản đầu năm 2022. Trong cuốn sách này, bác sĩ Baurac có một phần mô tả chi tiết về phong tục đám hỏi và đám cưới của người Việt thời đó. Nhận thấy việc tìm hiểu đời sống văn hóa của cha ông mình ngày xưa là một việc làm cần thiết và không kém phần thú vị, trong đó phong tục về cưới hỏi là một phần quan trọng của đời người, nó mang tính nối tiếp qua nhiều thế hệ, đến ngày nay vẫn còn nhiều sự ảnh hưởng từ hàng trăm năm trước, nên xin giới thiệu với bạn đọc trong bài viết sau đây.
Người An Nam (người Pháp gọi người Việt là An Nam thời thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) cũng như người Trung Hoa, hôn nhân chỉ tùy thuộc vào người cha, hay đúng hơn là người chủ gia đình. Nhưng người Trung Hoa thì tuân thủ nghiêm ngặt các nghi thức hơn, đôi trẻ hứa hôn thường không biết nhau, còn đời sống của phụ nữ và thiếu nữ An Nam, ít nhất đối với tầng lớp bình dân, không quá khép kín như ở Trung Hoa.
Có thể nhận thấy trong các cuộc hôn nhân của người An Nam thì việc hứa hôn từ nhỏ, sự sắp đặt của gia đình hiếm khi xảy ra, dù về mặt lý thuyết thì thẩm quyền của người chủ gia đình (thường là người cha) vẫn là tuyệt đối, và việc kết hôn vẫn do sự mai mối, nhưng sau đó cũng đã có sự đồng thuận, chấp thuận của “đương sự”. Dĩ nhiên vẫn có nhiều trường hợp “ép gả” và “bắt cưới”, nhưng nó không còn gay gắt và chiếm đa số như thời trước đó.
Không như ở Trung Hoa, thời điểm này trai gái mới lớn vẫn phải nhất nhất nghe theo sắp đặt của cha mẹ, thì thanh niên ở An Nam có được cả ngàn cơ hội để gặp gỡ, bày tỏ tình cảm với “đối tượng” của mình bằng cách này hay cách khác trước khi làm đám cưới. Cũng có những trường hợp đám cưới gặp phải sự xung khắc ngay gắt ngay trong ngày đầu tiên buộc phải dùng đến một nghi lễ đặc biệt sẽ được kể ở dưới đây.
Khi chàng trai đến tuổi 17-18, cũng là đến lúc cha mẹ anh ta nghĩ đến việc lập gia đình cho con và tìm kiếm trong gia đình của dòng họ khác một cô gái khoảng 15 tuổi. Đôi khi người ta thấy trai gái kết hôn ở tuổi nhỏ hơn nữa, như là trai 15 – gái 12 chẳng hạn, thường là do mong muốn của cha mẹ già để đảm bảo sự tiếp nối liên tục của dòng họ càng sớm càng tốt, nhưng khá hiếm.
Khoảng thứ 2 của điều 94 Luật Gia Long về Hôn Nhân có viết: “Đối với hôn nhân của nam và nữ, ở mỗi phái phải là một tuổi nhất định”, nhưng lại không nói tuổi này là bao nhiêu. Sách Lễ ấn định nó mà 14 cho nữa và 16 cho nam. Cũng vì vậy mà ở xứ Nam kỳ này cấm phong tục hứa hôn từ trong bụng mẹ (vì lúc đó chưa đủ tuổi để kết hôn theo sách Lễ). Tuy nhiên người ta nói ở các tỉnh phía Bắc thì không như vậy, các gia đình hứa hôn cho con còn trong bụng bằng một vật làm tin.
Ở Trung Hoa, việc kết hôn giữa hai người cùng họ bị cấm tuyệt đối, nhưng ở An Nam thì hạn chế chứ không cấm, việc nới lỏng này được giải thích là vì người mang họ Nguyễn đông vượt mức bình thường, nhất là ở các tỉnh phía Nam.
Khi cha mẹ một chàng trai để ý đến một cô gái mà họ cho là hội đủ các phẩm chất họ muốn tìm thấy ở một cô con dâu, họ hỏi về ngày sinh, gia thế của cô và tìm hiểu trong nhà cô có người phạm tội hay bị bệnh phong hay không… Một khi đã hài lòng về tất cả, sau khi kiểm tra xem số mạng có hợp để kết hôn, đàng trai sẽ ngỏ lời bàn chuyện hôn nhân thông qua một người đàn ông đứng tuổi vẫn còn vợ, có đạo đức tốt, được trọng vọng, người này sẽ đóng vai trò chủ chốt trong hôn nhân của người An Nam, đó là người mai mối (mai-dong).
Mai-dong sẽ đến thăm cha mẹ cô gái, nhưng trước tiên không đưa ra bất kỳ đề nghị chính thức nào, chỉ hỏi là có đồng ý kết thông gia với gia đình đã nhờ ông đến ngỏ ý hay không. Lúc này đến lượt gia đình cô gái lấy thông tin cần thiết về gia đình bên đàng trai. Nếu có ý định đồng ý hôn sự thì đưa ra câu trả lời sau vài lần mai-dong ghé thăm, nhưng lúc này vẫn chưa có bất kỳ đính ước chính thức nào.
Lúc này, mọi thông tin về đôi trẻ phải được nói rõ cho nhà bên kia nắm rõ, như là khuyết tật về thể chất, hình thể, hoặc khiếm khuyết về thể tạng (bệnh tật), lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi, thân thế và gốc gác… để mỗi gia đình có đầy đủ thông tin để có quyết định riêng. Nếu một trong 2 gia đình không chấp nhận phía còn lại thì việc tiến hành hôn sự sẽ dừng lại. Nếu 2 gia đình đều đồng ý với người mai mối, một giao ước sẽ được thảo ra, các nghi lễ ăn hỏi và lễ cưới sẽ được lên kế hoạch để tiến hành.
Khi cha mẹ cô gái (tạm thời) đồng ý, mai-dong dẫn chàng rể tương lai đi cùng một lần để ra mắt họ. Khi gặp nhau, cha mẹ cô gái có quyền thử tài chàng trai, nếu anh là một nho sinh thì họ kiểm tra vốn học, sự tài trí, hoặc nếu không thì sẽ kiểm tra kiến thức về nghề nghiệp. Sau đó cha mẹ cô gái sẽ đến thăm cha mẹ chàng trai, chỉ sau chuyến thăm này họ mới đưa ra quyết định cuối cùng. Khi đó người ta sẽ ấn định ngày tiến hành nghi lễ đầu tiên là đám nói (người Bắc gọi là dạm ngõ). Ngày được ấn định theo các thầy nho dựa vào ngày sinh của đôi vợ chồng tương lai.