Chuyện củi lửa một thời gian khó ở Hà Nội: Ký ức về chiếc bếp d.ầu thời bao cấp và ‘kho báu’ dưới hồ Trúc Bạch…

Xưa

Ngày 10/10/1954, khi 5 cửa ô Hà Nội đón chào đoàn q.u.ân về tiếp quản Thủ đô thì cũng là ngày cuộc sống mới bắt đ.ầu với người dân Hà Nội. Ôn lại ký ức xưa cũ, tôi xin kể lại những câu chuyện đời thường: Chuyện củi l.ử.a, đun nấu của dân Hà Nội thuở ấy.

Bếp d.ầu, lá vàng rụng rơi và thảo thơm cơm mẹ nấu

Gia đình tôi sống trong một biệt thự Pháp cũ ven hồ Trúc Bạch. Giống như những ngôi nhà trên phố c.ổ Hà Nội khác, từ c.ổng đi vào, sau ngôi nhà 3 tầng chính là một sân giời, bể nước. Tiếp đến là gian nhà ngang làm bếp rộng 35m2, trên là sân thượng và buồng ở của người giúp việc , dưới là chỗ đun nấu và tích trữ củi.

Xếp hàng m.ua chất đ.ố.t tại cửa hàng m.ậu d.ịch thời bao cấp. (ảnh sưu tầm)

Trong bếp có một bệ bếp xây gạch cao kho.ảng 80 phân, kéo dài hơn 2 mét, có thể đặt được vài chiếc kiềng gang và bếp đun mùn cưa. Trên trần bếp có thêm chiếc máng thu khói hình chóp chữ nhật làm bằng nan gỗ trát vôi rơm. Trên đỉnh máng là ống khói xây gạch chọc thẳng lên sân thượng cao kho.ảng 3m.

Khi tôi lên 5, lên 6, vào đ.ầu những năm 1960, tôi nhớ củi đun ở 4 khu phố trung tâm cũ Hà Nội (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng) được b.án phân phối theo Bìa m.ua chất đ.ố.t gia đình. Tiêu chuẩn tuỳ theo nhân khẩu mỗi nhà, và củi b.án kèm mùn cưa. Những cửa hàng chất đ.ố.t ngày ấy thuộc Công ty vật liệu kiến thiết Hà Nội, nằm rải rác ở nhiều phố, đa số gần các chợ, thường b.án ra củi tạ đã được cưa ngắn, cân trên chiếc cân bàn câm đặt ngay trước cửa hàng.

Dù được m.ua theo phân phối nhưng củi đóm ở thành phố vẫn luôn thiếu. Người Hà Nội phải tận dụng tất cả những thứ có thể đun nấu được. Người lớn trẻ con mỗi khi có cơn bão về là lao ra phố nhặt cành cây rơi. Lá vàng rụng trên đường phố, ngoài công viên cũng có những người quét về đun nấu.

Một bà mẹ đèo con về sau giờ tan ca thời bao cấp. (Ảnh sưu tầm)

Có một bà mẹ đơn thân nhà trên phố Thụy Khuê đoạn gần dốc La-Fo, ngày nào cũng ra thu gom lá rụng trên đường Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Quán Thánh, rồi b.án cho các hàng nấu “nước sôi 2 xu/lít” hoặc các hàng quán khác. Tích cóp mấy năm, bà mẹ ấy cũng m.ua được cho cậu con trai cái xe đạp thiếu nhi Liên Xô, thuở ấy gọi là xe “con cóc”- giấc mơ của bọn trẻ chúng tôi. Đúng là tiền từ trên trời rơi xuống, có điều không phải ai cũng chăm chỉ và cần mẫn như bà mẹ Hà Nội ấy mà đón nhặt lấy…

Nhà tôi không đun mùn cưa, nhờ có bà chị tôi làm Kế toán ở Cty VLKT Hà Nội, nên củi đủ dùng do thời ấy cũng đã có”cửa sau” b.án hàng nội bộ. Nhưng theo mọi người kể lại, nhất là các nhà Hà Nội thì bếp đun mùn cưa là loại bếp củi người Hà Nội sáng chế ra chưa lâu lắm. Chỉ mới từ ngày những xí nghiệp mộc nhà nước đi vào h.ọ.at động sản sinh ra lượng mùn cưa lớn có thể b.án cho người dân làm chất đ.ố.t.

Trước khi nấu ăn, người ta đặt cái chai làm cốt dồn mùn cưa vào bếp cho đủ chặt. Lỏng t.ay chưa chín nồi cơm bếp đã sụt tắt. Chặt t.ay quá đun hết bữa vẫn còn ch.á.y phí phạm. Dồn được cái bếp mùn cưa vừa vặn có khi còn là bài toán khó. Đến bữa chỉ cần nhìn miếng ch.á.y đ.á.nh ra từ nồi gang nấu cơm là có thể biết được bếp mùn cưa hôm ấy dồn thừa hay thiếu.

Bếp củi còn thịnh hành ở Hà Nội cho đến đ.ầu những năm 1970 mới chấm dứt. Đơn giản vì lúc ấy cũng bắt đ.ầu hết củi. Các xí nghiệp mộc cũng đình đốn sản xuất vì hết gỗ. Thời đun củi chấm dứt thì thời bếp d.ầu ho.ả lên ngôi.

Những cái bếp d.ầu bằng sắt sơn xanh hoặc tráng men xanh có nhãn hiệu Thăng Long, Đồng Tháp trở thành một trong những vật dụng quan trọng nhất của mỗi gia đình Hà Nội. Thậm chí, nó còn là một món quà cưới quý giá mà người thân dành tặng cho các cặp uyên ương Hà thành ngày lên xe hoa.

Cái bếp d.ầu quen thuộc một thời bao cấp. (Ảnh sưu tầm)

Tôi nhớ mẹ tôi, sáng ra trước lúc các con dậy đi học, đi làm, Người thường dậy sớm từ trước 5 giờ, đun bếp d.ầu để rang cơm cho cả nhà ăn. Tôi chẳng thể nào quên cái mùi khói bếp d.ầu khét lẹt sáng sáng xộc vào mũi , quyện với mùi cơm rang thơm lừng. Cơm nguội thừa hoặc cố tình nấu dôi ra từ bữa tối hôm trước , rang với tóp mỡ và dưa muối, hành lá… rưới thêm ít nước mắm hay xì d.ầu là ấm bụng đi học, đi làm cho đến tận trưa.

Khi có xe máy xuất hiện ở Hà Nội, một số gia đình có xe máy lại m.ua x.ă.ng dự trữ trong các cái can cất trong nhà. Và t.a.i h.ọ.a từ các can x.ă.ng ấy đã gây ra nhiều vụ ch.á.y đ.au th.ư.ơng cho Hà Nội. Vụ ch.á.y trong Khu tập thể ngõ Văn Chương tại gia đình nhà điêu khắc Lê Văn Điều vào năm 1977 là một ví dụ.

Buổi sáng dậy nấu cơm sáng, đèn đóm thì tối om om, ông Điều đã lấy nhầm can x.ă.ng đổ vào bếp d.ầu. Khi vừa châm bếp thì l.ử.a bùng lên, th.i.ê.u ch.á.y cả nhà điêu khắc cùng mọi vật dụng trong ngôi nhà tập thể cũ kỹ ấy. (Nhà điêu khắc Lê Văn Điều chính là tác giả bức tượng đài Chiến thắng Sông Lô nổi tiếng).

Rồi vụ ch.á.y rụi cả mấy dãy nhà tập thể trong Khu văn công Cầu Giấy năm 1974., cũng do bếp d.ầu bị đổ nhầm x.ă.ng xe máy. Tuy không có ai th.i.ệt m.ạ.ng nhưng vụ ch.á.y cũng khiến bao nghệ sĩ nổi tiếng thuở ấy như Trần Hiếu, Trần Chất, Ngọc Dậu, Thúy Huyền… bỗng lâm cảnh màn trời chiếu đất không ít ngày, gia sản người nghệ sĩ vốn đã nghèo lại sạch trơn sau đám ch.á.y.

Chú bé “c.ả.m t.ử quân” và bao mùn cưa

Tháng 8/1964, Mỹ phát động cuộc ch.i.ến t.r.anh phá h.ọ.ai bằng kh.ông q.u.ân ra miền Bắc. Quãng 1965-1967 cuộc ch.i.ến t.r.anh ấy trở nên kh.ốc li.ệt và lan ra tới Hà Nội. Ch.i.ến t.r.anh, những vẫn phải nấu nướng, ăn uống, vẫn lại phải lo chất đ.ố.t. Và có lại nhiều câu chuyện đáng nhớ diễn ra liên quan đến củi l.ử.a của người Hà Nội thời b.o.m đ.ạn ấy.

Một chiều hè năm 1967, nóng bỏng nắng quái chiều hôm. Nóng bỏng tiết trời, nóng bỏng đ.ạ.n b.o.m. Còi báo động trên nóc Nhà hát Lớn rú liên hồi g.h.ê r.ợn. Những tốp máy bay Mỹ quần đảo r.ạ.ch n.á.t bầu trời Thủ đô xanh ngắt.

Cầu Long Biên, Hà Nội. (Ảnh sưu tầm)

Một tốp nhằm thẳng cầu Long Biên – cây cầu duy nhất thời đó nối thủ đô với phía bắc và đông bắc đất nước – trút đ.i.ê.n c.u.ồ.ng hàng loạt r.o.c.k.et. S.ú.n.g c.ao x.ạ ph.òng kh.ông từ trận địa An Dương – Phúc Xá, từ ngay các ụ pháo trên nóc cầu, nhằm máy bay đ.ị.ch xối xả nhả đ.ạ.n. M.ặt cầu không một bóng người. Trên nóc cầu là các chiến sĩ ph.òng kh.ông. Hai đ.ầu cầu là c.ô.ng a.n, tự vệ, dân phòng và những người phục vụ c.h.i.ế.n đ.ấ.u.

Vậy mà đúng lúc tr.ậ.n ch.i.ến đang diễn ra đầy kh.ốc li.ệt và ng.uy hi.ểm, khói S.ú.n.g khét lẹt, mảnh đ.ạ.n vãi như trấu cắm xuống m.ặt cầu, bỗng xuất hiện trên m.ặt cầu một cậu bé trạc 13-14 tuổi, đ.ầu đội mũ rơm, đang mải miết gò lưng đạp chiếc xe Phượng Hoàng từ phía Gia Lâm sang Hà Nội, sau xe là một bao tải lặc lè. Cậu bé đạp đến quá nửa cầu thì 2 chiến sĩ c.ô.ng a.n đ.ầu đội mũ sắt từ phía ga Long Biên lao tới. Một người bế thốc cậu bé chạy tiếp qua cầu, người kia đẩy vội chiếc xe đạp cùng cái bao tải đổ kềnh ra mạn cầu…

Trận c.h.i.ế.n đ.ấ.u kết thúc, còi báo yên gióng giả vang lên. Lúc ấy, mọi người mới có thời gian quan tâm đến cậu bé, lúc này m.ặt mũi vẫn đỏ gay vì nắng nóng, nước m.ắt lưng tròng vì lo mất xe và bao tải hàng. Một anh tự vệ dắt chiếc xe đạp tới, cậu bé líu lưỡi: “May quá, may quá..! Cả xe và bao tải vẫn còn nguyên… Cháu xin các chú”.

Một chiến sĩ c.ô.ng a.n hỏi, giọng gay gắt đầy cảnh giác (thời chiến mà): “Này, thằng bé kia, bao tải đựng hàng gì đấy?”. M.ắt chợt sáng long lanh, cậu bé nhanh nhảu: “Mùn cưa chú ạ” – “Cái gì, mùn cưa á?”. “Vâng, mùn cưa đun bếp ạ. Nhà cháu hôm qua hết sạch không còn gì để đun rồi. Mẹ cháu ốm, chị cháu học ca chiều, cháu học sáng nên chiều nay phải đi m.ua mùn cưa ạ…” – “Thế bố đâu mà không đi m.ua?”. “Dạ, bố cháu đi B c.h.i.ế.n đ.ấ.u đã hơn 3 năm rồi…”.

Nghe đến đấy, anh c.ô.ng a.n dịu giọng: “Sao cháu không để báo yên rồi hẵng qua cầu. Ng.uy hi.ểm quá, vì mỗi bao mùn cưa mà ch.ế.t như chơi đấy nhá…”. “Lúc báo động cháu cũng sợ, nhưng cháu lo đ.á.nh nhau lâu, tối muộn mẹ cháu không có gì nấu cháo, đã ốm lại đói thì tội lắm, nên cháu liều đạp qua cầu ạ”. “Mà này, nhà cháu ở đâu nhỉ?”. “Ở ngay phố Kim Mã ạ. Gần ngay nhà cháu cũng có cửa hàng b.án mùn cưa, nhưng cháu sang tận Trâu Quỳ m.ua, đạp xe cả trưa mới tới, vì thấy mọi người bảo là sang bên ấy m.ua mùn cưa, cứ mỗi bao tải 30 cân lại được cho thêm một thanh củi giát giường để buộc vào poóc-ba-ga chở hàng cho chắc ạ…”.

Phiếu m.ua chất đ.ố.t thời bao cấp. (Ảnh sưu tầm)

Trời ạ! Để thêm được vào bếp l.ử.a nhà mình chỉ mấy thanh củi giát giường bé tẹo mỏng tang, cậu học trò cấp 2 gầy gò khẳng khiu ấy đã phải đạp xe hơn 2 chục cây số cả đi lẫn về giữa nắng nóng gần 40oC như thế.

Để mang kịp về mỗi một bao tải mùn cưa cho mẹ có chất đ.ố.t nấu bữa cháo chiều, đứa con trai duy nhất của người l.í.nh đang biền biệt ngoài m.ặ.t tr.ận phía Nam đã phải liều lĩnh đội cả trận mưa r.o.c.k.et và mảnh đ.ạ.n c.ao x.ạ, vượt cầu Long Biên như thế.

Nếu chẳng may dính mảnh đ.ạ.n, bao mùn cưa chiều ấy chắc sẽ thấm đẫm m.á.u của một chú bé Hà Nội thời gian khổ, thiếu thốn đủ đường, trong đó có chất đ.ố.t ấy…

“Kh.o b.áu” dưới đáy hồ Trúc Bạch

Người Hà Nội không ai không biết hồ Trúc Bạch. Nhưng có thể ít ai biết rằng, dưới đáy cái hồ đẹp như một tấm gương soi chứa bao huyền th.ọ.ai lịch sử và chiến công hiện đại ấy, từng có thuở chứa đựng cả một “kh.o b.áu” chất đ.ố.t khổng lồ cho dân Hà Nội.

Chuyện là thế này. Nhà máy Điện Yên Phụ nằm ngay đ.ầu dốc Cửa Bắc, chỗ đất bây giờ xây tòa cao ốc nguy nga trụ sở EVN. Từ sau tiếp quản Thủ đô 1954, nhà máy điện này vẫn là nguồn cung cấp điện duy nhất cho toàn thành phố.

Máy móc từ thời Pháp để lại cũ kỹ và lạc hậu, thi tho.ảng có sửa chữa, chắp vá thêm máy móc Liên Xô, Trung Quốc viện trợ, nhưng công nghệ cũng kém cỏi, nên ngày ngày, cái nhà máy điện này vẫn cứ đều đặn thả lên trời Hà Nội cuồn cuộn khói than và thải xuống hồ Trúc Bạch hàng tấn xỉ than qua đường cống bảo dưỡng chạy ngầm dưới l.òng phố Phạm Hồng Thái, Châu Long, rồi đổ ra chỗ mép hồ cạnh chợ Châu Long.

Hồ Trúc Bạch ngày nay. (Ảnh: Zing.vn)

Sau nhiều chục năm trời, cái lượng xỉ than, bụi than đều đặn hằng ngày hằng giờ thải từ Nhà máy Điện Yên Phụ ra ấy, sau khi ngâm mình trong nước ấm hồ Trúc Bạch, đã biến thành một “mỏ” than bùn khổng lồ dưới đáy hồ, giúp dân Hà Thành vượt qua những ngày “than châu, củi quế” thời bao cấp đói nghèo.

Thế là một thứ chất đ.ố.t mới ra đời: Than bùn Trúc Bạch (Thiết thực và nổi tiếng hơn cả b.ia Trúc Bạch rất nhiều năm). Thế là một nghề “sản xuất nă.ng lư.ợng” mới xuất hiện: Nghề làm than bùn. Những rổ than bùn được các thợ lặn không chuyên, chủ yếu là dân ven hồ, lặn vét lên bờ, chờ ráo bớt nước thì nhào nặn, nắm vắt thành những cục than, rồi phơi khô ngay ven bờ hồ, trông na ná như những chiếc b.ánh bao Tàu trên phố Hàng Buồm, tuy sắc màu trắng đen tương phản tột cùng!

Những nắm than bùn Trúc Bạch theo những người đội thúng trên đ.ầu nước than bùn chảy nhễu che kín m.ặt, chỉ còn thấy mỗi hàm răng lập cập vì ngâm nước suốt ngày và đôi m.ắt đỏ ngầu vì dặm than, hoặc người oách hơn có cái xe thồ, kẽo kẹt đi khắp hang cùng ngõ hẻm, cấp than bùn cho mọi bếp nhà khắp thành phố.

Cơ khổ là nhóm lò đun bằng than bùn ấy. Làm gì có điện sẵn như bây giờ mà nhóm lò bằng quạt máy. Nên cứ là quạt rã t.ay, rách cả cái quạt nan mà bếp chưa đỏ l.ử.a. Than ít, bùn nhiều đã đành. Lại còn làm vội, b.án vội, nước hồ còn chưa ráo, nhưng để có cái mà đun vẫn cứ b.án c.ư.ớp, tranh m.ua, cho dù khói xông hơn cả đ.ầu xe l.ử.a chạy than ngoài ga Hàng Cỏ.

Nhà ai vung nồi không khít, nấu xong, bưng bát cơm lên ăn, bát canh lên húp, cứ thấy quanh mâm thoang tho.ảng mùi khen khét của khói, váng vất mùi thum thủm của bùn, rõ thảm!

Có cậu thanh niên phố tôi, từ dân vét b.án than bùn, sau dăm năm có vốn chuyển qua phe d.ầu hỏa, rồi phe x.ă.ng, cứ loanh quanh th.ậm th.ụt với mấy cô m.ậu d.ịch viên cửa hàng chất đ.ố.t chợ Châu Long mà phất lên vùn vụt. Rồi sau đó ông chuyển qua sắm xe bò kéo chở than, xe tải chở củi, nay đường đường là chủ một hãng taxi danh giá có trụ sở trên đường Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, đường đường là một trong những đại gia thời nay ở đất Hà thành!

Anh chàng vét than và ngài Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ

Ấy là chuyện về một anh chàng tên H. dân gốc Hà Nội, nhà ở bên dãy số chẵn phố Quán Thánh, bơi giỏi, lặn siêu. Nghề chính là vận động viên bơi lội, từng đoạt Huy chương vượt sông Hồng nhanh nhất giải Thanh niên Thành phố, từng được bằng khen vì cứu nhiều người trong lũ lụt ngoài đê.

Nhưng rồi, sinh ra phải thời b.o.m đ.ạn, lớn lên gặp buổi bao cấp, những khen thưởng kia chẳng giúp chàng vượt qua nghèo khó, lại sẵn tài sông nước, lưng nhà áp với m.ặt hồ, thế là chàng hồ hởi đ.ầu quân vào đội quân vét than bùn lam lũ nhưng kiếm ra tiền mỗi ngày trên hồ Trúc Bạch.

Một buổi trưa, đang lặn ngụp vét than bùn, cũng vào những ngày ch.i.ến t.r.anh phá h.ọ.ai của kh.ông q.u.ân Mỹ, tuy có còi báo động, nhưng thấy là trận kh.ông ch.i.ến nên chàng vẫn vô tư, coi hồ Trúc Bạch như cái “tăng xê” nhà mình. Thế rồi, sau mấy phát tên l.ử.a không đối không nổ cao tít đâu đâu, chàng bỗng thấy một chiếc dù lơ lửng ngay trên đ.ầu mình, rồi cắm thẳng xuống hồ, cách “khai trường than bùn” của chàng có vài trăm mét.

Phi công John McCain được đưa vào bờ sau khi rơi xuống hồ Trúc Bạch vào ngày 26/10/1967. (Ảnh: Library of Congress)

Vứt xừ cái rổ than mới vớt xong, sau vài cái sải t.ay, chàng đã đến sát nơi chiếc dù rơi. Tên giặc lái Mỹ, bị th.ư.ơng vì dính đ.ạ.n của máy bay ta, đang đầm đìa m.á.u me, lúng túng như gà mắc tóc, vùng vẫy giữa mớ dây rợ lằng nhằng. Tiếng Mỹ không biết nửa từ, nhưng chàng vẫn thoăn thoắt gỡ tên phi công Mỹ đang ngáp nước ừng ực ra khỏi cái mớ dù bùng nhùng, rồi vừa bơi vừa dìu cái tấm thân ngót nghét hơn tạ thịt ấy vào bờ.

Ít phút sau, theo sau chàng, đã có mấy người nhảy xuống, cùng dìu t.ay phi công Mỹ lên. Rồi nhà chức trách tới, đưa viên phi công đi cấp cứu y tế, sau đó là đưa y tới tr.ại gi.am “Khách sạn Hilton – Hà Nội” làm t.ù bi.nh, đương nhiên.

Ch.i.ến t.r.anh chấm dứt, hết thời bao cấp, nghề than bùn lụi tàn, chàng trở lại với nghiệp bơi lội, làm huấn luyện viên cho một câu lạc bộ bơi quận Ba Đình.

Gần 20 năm sau cái buổi trưa bắt phi công trên hồ, vào một tối mùa đông giáp Noel, chàng, sau bữa cơm chiều với vợ con, đang pha ấm trà nhâm nhi thì có khách. Ông Tổ trưởng dân phố dẫn mấy vị cán bộ phường sở tại và c.ả.nh s.át khu vực đến để thông báo cho chàng biết mà chuẩn bị dọn dẹp nhà cửa, sửa soạn trang phục, vì ngày mai viên phi công Mỹ mà chàng đã vớt lên từ dưới hồ – giờ là Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ John McCain – sẽ cùng cả một đoàn cán bộ chính quyền thành phố, một số nhân viên ngoại giao, một số thành viên Hội Hữu nghị Việt – Mỹ tới thăm và cảm ơn chàng – người đã cứu ông ta thoát ch.ế.t đuối năm xưa.

Vài chục tờ báo, đài phát thanh truyền hình sau đó một hôm tíu tít đưa tin sự kiện liên quan đến chàng. Ảnh chàng với ngài Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ McCain t.ay bắt m.ặt mừng nằm đầy các sạp báo suốt cả tuần. Chàng trai vét than bùn bỗng trở thành nổi tiếng, hơn cả lần vượt sông Hồng nhanh nhất giải năm xưa, hơn cả Trấn Thành với Đàm Vĩnh Hưng bây giờ!

Ông hàng xóm cùng số nhà của chàng sau buổi gặp ấy thì thào pha chút ghen tị kể rằng, cái bữa chàng rái cá gặp ngài McCain, lúc ấy chàng ta mới trịnh trọng trao lại cho viên phi công – Thượng nghị sĩ mảnh nhôm đeo trên c.ổ ghi tên họ và số l.í.nh của ông ta mà chàng đã nhặt được ngay trưa hôm vớt ông Mỹ trên hồ ấy, và giấu kỹ hơn 20 năm trong đáy tủ không tiết lộ với ai.

Còn ngài Thượng nghị sĩ, cũng theo thì thào của ông hàng xóm, đã tặng chàng chiếc đồng hồ Thụy Sĩ được nước Mỹ “thửa” riêng chỉ dành tặng cho các phi công ưu tú của Kh.ông l.ực Hoa Kỳ, có khắc cả chữ ký của Tổng thống đương nhiệm. Kèm theo đó là một túi quà Giáng sinh, mà ngoài chàng và ngài McCain, đến bây giờ cũng không một ai biết trong đó có gì.

Đấy là đôi ba câu chuyện đời thường về một thời củi l.ử.a nơi Hà thành bao cấp gian khổ, ch.i.ến t.r.anh hiểm nguy…

Đấy cũng là những kỉ niệm không bao giờ phai trong trái t.i.m mỗi người Hà Nội đã từng sống qua những năm tháng á.c li.ệt mà hào hùng đó…

Theo Dân Việt