“Hổ tướng Tây Sơn” Nguyễn Văn Lộc: Đánh cho Tôn Sĩ Nghị còn 50 quân tháo chạy về Quảng Tây

Lịch Sử
Do đi đường biển nên cánh quân của Đô đốc Nguyễn Văn Lộc đến trễ hơn dự tính vài ngày nhưng cánh quân của ông cũng đã kịp tiếp sức đánh một trận lớn ở Phượng Nhãn. Kết quả Tôn Sĩ Nghị chạy thẳng về Quảng Tây dưới trướng còn chừng 50 quân lính.

Danh tướng Nguyễn Văn Lộc còn có tên gọi khác là Đô đốc Nguyễn Văn Lộc, là một trong Tây Sơn thất hổ tướng (7 tướng tài của nhà Tây Sơn). Ông là người làng Kỳ Sơn, huyện Tuy Viễn, nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Hiện nay các sử gia vẫn chưa biết năm sinh và năm mất của ông.

Danh tướng Nguyễn Văn Lộc sinh ra trong một gia đình nghèo phải đi chăn trâu cho nhà giàu. Nhân cơ duyên đi ngang qua làng, một lữ khách thấy cậu bé có tư chất thông minh và phong thái khác kẻ bình thường nên truyền dạy võ nghệ. Có thể nói từ nhỏ ông đã là bậc võ nghệ cao cường. Khi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ dấy binh, ông tham gia cuộc khởi nghĩa.

"Hổ tướng Tây Sơn” Nguyễn Văn Lộc: Đánh cho Tôn Sĩ Nghị còn 50 quân tháo chạy về Quảng Tây - Ảnh 1.

Đô đốc Nguyễn Văn Lộc. Ảnh minh hoạ.

Năm 1775, quân Tây Sơn do Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ tấn công vào chiếm lại Phú Yên, nơi đây tướng chỉ huy quân chúa Nguyễn là Tống Phúc Hiệp có cả thảy hơn 2 vạn quân. Trong trận này, ông là người có những đóng góp đáng kể. Kết quả quân Nguyễn bại trận, tướng quân của chúa Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền bị giết tại trận, tướng Nguyễn Khoa Kiên bị bắt sống. Đường tiến quân thẳng vào Gia Định được mở rộng.

Năm 1786, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ vượt đèo Hải Vân đánh thẳng vào đạo quân Trịnh đang đóng tại Phú Xuân (Huế). Tướng chỉ huy quân Trịnh trong trận đánh đó là Tạo Quận công Phạm Ngô Cầu và Tạo Sĩ Hoàng Đình Thể. Qua nhiều trận đánh, tướng quân của chúa Trịnh là Hoàng Đình Thể và 2 con trai tử trận. Tướng Võ Tá Kiên chết trận. Phạm Ngô Cầu bị bắt sống. Sau lần thứ nhất đưa quân ra Bắc, Nguyễn Văn Lộc được phong làm Phòng Ngự sử tại Thanh Hóa.

Năm 1789, khi quân Tây Sơn đại phá 20 vạn quân Thanh thì Đô đốc Nguyễn Văn Lộc được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng thủy binh từ Biện Sơn theo đường biển tiến vào Hải Dương, sau đó vòng lên Phượng Nhãn và Lạng Giang (Bắc Ninh – Bắc Giang) phục kích, truy quét tàn quân Mãn Thanh khi chúng rút chạy, nhằm tránh việc Tôn Sĩ Nghị đủ sức tập hợp tàn binh và quay lại phản kích. Do đi đường biển nên cánh quân của Đô đốc Nguyễn Văn Lộc đến trễ hơn dự tính vài ngày nhưng cánh quân của ông cũng đã kịp tiếp sức đánh một trận lớn ở Phượng Nhãn. Kết quả Tôn Sĩ Nghị chạy thẳng về Quảng Tây dưới trướng còn chừng 50 quân lính.

Trong thời gian đầu của thời vua Cảnh Thịnh, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc cùng phối hợp với Thái phó Trần Quang Diệu vây hãm và phá vỡ thành Quy Nhơn, buộc viên danh tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Võ Tánh phải tự vẫn. Sau trận đánh đó ông được thăng cấp làm Thần Võ Hữu quân Đô thống chế.

Sau trận Kỳ Sơn, danh tướng Nguyễn Văn Lộc lại tiếp tục thắng trong 20 trận đánh giằng co giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn. Quân Nguyễn dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh cao cấp của Nguyễn Phúc Ánh là Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành.

Sau đó, vì Bùi Đắc Tuyên lộng hành triều chính, vua Quang Toản còn trẻ nên ông bị kẻ gian hãm hại thu hết binh quyền rồi bị giáng xuống làm quan Thị lang ở Bộ lễ. Ông từ quan về ẩn cư tại núi Hoàng Mai, huyện Tuy Viễn (nay thuộc tỉnh Bình Định). Khi ông mất, vua Quang Toản ban cho ông tên thụy là Trung Liệt.

Theo một số tài liệu khác thì ông không xin từ chức lúc ấy. Mãi đến khi vua Cảnh Thịnh bị bắt, ông mới tự giải tán đội quân của mình rồi lên núi Kỳ Sơn ẩn náu. Đồng đội của ông là tướng Nguyễn Quang Huy cũng bỏ đi lánh thân. Tương truyền, hai ông có gặp lại nhau bàn chuyện phục nghiệp nhà Tây Sơn, nhưng khi suy tính kỹ, cả hai thấy không thể làm gì được nên thôi.

Lời bàn:

Tiếc rằng triều đại của người anh hùng áo vải Quang Trung quá ngắn ngủi, nên các danh tướng Tây Sơn phải chịu sự thiệt thòi lớn. Họ có cả một đời xông pha oanh liệt với hàng loạt những chiến công kiệt xuất, nhưng sử sách ghi chép về họ lại quá ít. Họ đã anh dũng chiến đấu quên mình vì nghĩa cả là cứu nước và cứu dân, nhưng ngay sau đó sự nghiệp phi thường của họ đã bị sử gia của triều Nguyễn cố tình lãng quên. Âu đó cũng là điều dễ hiểu, bởi với triều đình nhà Nguyễn thì nghĩa quân Tây Sơn là kẻ thù. Nhưng với nhân dân thì cuộc đời, sự nghiệp và công lao cũng như tấm lòng trung thành của các tướng lĩnh thời Tây Sơn sẽ không bao giờ phai mờ.

Tuy nhiên, điều mà hậu thế đáng trân trọng là theo sử sách còn lưu truyền đến ngày nay, hầu hết các danh tướng của nhà Tây Sơn đều xuất thân không phải từ tầng lớp quan lại “cha truyền con nối”, mà họ được tập hợp dưới ngọn cờ Tây Sơn, được rèn luyện, giáo dục thành những danh tướng tài ba và cũng nhất mực trung thành. Từ đó cho thấy, Nguyễn Huệ không chỉ là vị vua xuất chúng về quân sự, mà còn là vị vua có tài về nghệ thuật dùng người. Ông đã giáo dục từ đứa trẻ chăn trâu, thậm chí là một tướng cướp… để trở thành những vị tướng tài đánh nam, dẹp bắc, với những chiến công lẫy lừng và lưu danh sử sách. Đây là bài học quý cho hậu thế hôm nay và mai sau.