Hai vị vua cùng ngồi chung một ngai vàng trị vì đất nước là câu chuyện đặc biệt của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Nhà Ngô (939-965) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Sau khi vua Ngô Quyền qua đời, giai đoạn từ năm 951-954, hai con của ông Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập cùng làm vua nước Việt. Về sau, 2 anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cùng trị vì đất nước nhưng đó là 2 triều đại khác nhau.
Sau hơn nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, năm 905, hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ nổi lên giành chính quyền, tự xưng làm Tiết độ sứ An Nam, buộc nhà Đường phải công nhận, từng bước xác lập quyền tự chủ cho dân tộc ta.
Tồn tại từ 939-965, nhà Ngô ở nước ta trải qua 4 đời vua, gồm: Ngô Quyền (Tiền Ngô Vương), Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Xí. Đến năm 966, 12 sứ quân xuất hiện (loạn 12 sứ quân).
Sau khi đánh tan quân Nam Hán (938), Ngô Quyền xưng vương vào mùa xuân năm Kỷ Hợi (939). Vua chọn vùng đất Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay làm nơi định đô.
Làng cổ Đường Lâm ở thị xã Sơn Tây (Hà Nội) là quê hương của vua Ngô Quyền. Ngôi làng này còn có biệt danh “đất hai vua”, đã sinh ra vua Ngô Quyền và vua Phùng Hưng.
Ngô Quyền (897-944) sinh ra trong dòng họ hào trưởng của đất Đường Lâm. Ông được Dương Đình Nghệ gả con gái. Sau này, Dương Đình Nghệ bị thuộc tướng là Kiều Công Tiễn hại chết, Ngô Quyền kéo quân từ Hoa Lư ra báo thù cho bố vợ. Kiều Công Tiễn hoảng sợ đã cầu cứu nhà Nam Hán sang xâm lược nước ta.
Theo lời cầu cứu của Kiều Công Tiễn, cuối đông năm 938, vua Nam Hán phái con trai là Lưu Hoằng Tháo mang 200.000 quân sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền nhận định “Hoằng Tháo chỉ là đứa trẻ dại”, khó địch với quân ta. Cuối cùng, khi đến sông Bạch Đằng, đội quân xâm lược này bị đánh bại hoàn toàn.
Năm 944, Ngô Quyền ốm nặng. Trước khi qua đời, ông để lại di chúc nhờ em vợ là Dương Tam Kha phò tá cho con. Dương Tam Kha làm trái di chiếu, cướp ngôi nhà Ngô, xây dựng triều đại riêng, khiến đất nước từng bước loạn lạc.