Giữ quyền Tham tụng ( Tể tướng ) suốt 10 năm, Nguyễn Quý Đức cấm đoán những việc phiền hà sách nhiễu dân, khoan hồng với những người thiếu thuế và trợ giúp dân nghèo.
Bởi vậy trong dân gian lưu truyền câu ca “ Tể tướng Lê Hy thiên hạ sầu bi, Tể tướng Quý Đức thiên hạ hưu tức” (hưu tức – có nghĩa yên nhàn). Không chỉ để lại dấu ấn tốt đẹp của một thanh quan, Thám hoa Nguyễn Quý Đức còn là một kiệt tác gia, người góp công sức lớn trong việc trùng tu và dựng bia Tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám.
Vị Tể tướng trung hậu
Dòng họ Nguyễn Quý ở Đại Mỗ với hai ông cháu là Tể tướng, ba đời được phong Đại vương, vinh hiển nhất bậc. Bởi vậy, nhà bác học Lê Quý Đôn đã khái quát cô đọng trong bức trướng mừng Nguyễn Quý Kính: “Ba đời làm giảng quan, hai đời làm phụ tướng như tướng công (Nguyễn Quý Kính) kể từ Tiên công Quốc lão đến tướng công nền giáo dục về Thi – Thư – Lễ – Nhạc – Hiếu – Đễ – Trung – Tín một mạch truyền xa”.
Nguyễn Quý Đức hiệu là Đường Hiên, tự Bản Nhân, người xã Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, trấn Sơn Nam (nay thuộc Đại Mỗ, Nam Từ Liêm – Hà Nội). Ông sinh năm Mậu Tý (1648) trong một gia đình quan lại danh tiếng đất Thăng Long.
Một số nguồn sử liệu chép rằng, năm lên 8 tuổi Nguyễn Quý Đức theo học với chú họ (tự là Đạo Thông, nguyên là Tri huyện) và nhanh chóng nổi tiếng là kỳ tài. Năm 15 tuổi (1663), ông đỗ Hương cống và được thụ chức Hàn lâm viện Hiệu thảo. Sau đó, lại theo học với Tiến sĩ họ Lê (người làng Tam Lộng, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa).
Năm 22 tuổi (1670), ông đỗ khoa thi Hoành từ, được thăng làm Thị nội văn chức. Năm 28 tuổi (1676), đời vua Lê Hy Tông, Nguyễn Quý Đức đỗ Đình nguyên Thám hoa. Khoa này không chấm đỗ Trạng nguyên và Bảng nhãn nên chỉ mình ông đứng tên trong bảng Tam khôi.
Trong 42 năm làm quan, Nguyễn Quý Đức trải qua nhiều chức vụ quan trọng, như Đô ngự sử, Thượng thư bộ Lại rồi Tham tụng (Tể tướng), tước Liêm quận công, hàm Thái phó. Là người thuần hậu, trầm tĩnh, rộng rãi, khi làm Tể tướng ông cấm việc phiền hà, tha người trốn tránh và thiếu thuế, bớt tạp dịch, giúp nhà nông nên ai cũng khen ngợi.
Sách “Lịch triều tạp kỷ” cũng ghi: “Là người rộng rãi, trung hậu và trầm tĩnh, từ cách cư xử đến cách thù tiếp đều tỏ ra vui vẻ dễ dàng, nhưng khi bàn luận chính sự, hễ thấy việc gì chưa thỏa đáng thì kiên trì ý kiến nhiều lần, vững chắc không thể lay chuyển được… Ông làm chính sự cốt ở khoan hòa và trung hậu, được nhiều người suy tôn và noi theo”.
Nguyễn Quý Đức từng làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Với kiến thức uyên thâm, tài năng ứng phó, kiên trì đòi đất ở các tỉnh bị lấn chiếm, thực hiện lời Lê Thánh Tông: “Người nào đem một thước núi, một tấc sông của tổ tiên làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di”. Tình hình biên giới dần ổn định, phần đất bị lấn chiếm dần được hoàn trả.
Năm 1718, sứ Thanh là Đặng Đình Triết và Thanh Vân đem sắc phong cho nhà vua, bắt phải theo lễ của nhà Thanh “tam quỳ cửu khấu” (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu). Nguyễn Quý Đức khuyên chúa Trịnh Cương không nên thực hiện, cứ theo lễ nước Việt là “tam khấu ngũ vái” (ba lần quỳ, năm lần vái). Cuối cùng, sứ nhà Thanh phải chấp nhận.
Dấu ấn trùng tu Văn miếu
Khi Nguyễn Quý Đức giữ chức Thượng thư bộ Binh kiêm Tri Quốc Tử Giám, ông lấy việc giáo dục, tuyển chọn nhân tài cho đất nước làm mục đích của đời làm quan. Được giao trông coi Quốc Tử Giám, ông trực tiếp chỉ đạo việc lựa chọn người dạy và học, đích thân xuống nhiều trấn xem xét việc tuyển giám sinh.
“Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên ở mới dạng chép tay, Nguyễn Quý Đức cùng các danh sĩ Phạm Công Trứ, Lê Hy đã viết tiếp thời gian lịch sử 218 năm. Lần đầu tiên nước ta có được bản toàn thư khắc in và lưu hành khắp nước.
Lời tựa bộ quốc sử “Đại Việt sử ký tục biên” viết: “Trong sử phải nêu được việc hay việc dở mà công khai khen chê rõ ràng. Được lời khen của sử hơn cả vinh dự được vua ban áo đẹp. Bị lời chê của sử nặng hơn cả búa rìu. Sự thật là cái cân, cái gương để lại muôn đời sau”.
Các nguồn sử liệu cũng ghi chép rằng, Nguyễn Quý Đức là người có công lớn trong việc trùng tu, xây dựng thêm các công trình ở Văn miếu Quốc Tử Giám: Dựng điện Đại Thành và hai bên tả hữu vu, trang trí nhà Thái học, dựng 21 bia Tiến sĩ.
Lúc bấy giờ, qua 60 năm với hơn 20 khoa thi được tổ chức mà triều đình vẫn chưa cho dựng bia đề danh những người thi đỗ. Ngày 10/7/1716 đời Lê Dụ Tông, Nguyễn Quý Đức dâng tấu xin truy lập bia các khoa thi còn thiếu.
Trong tờ khải có đoạn viết: “Lâu ngày không có ai coi giữ về việc làm bia ấy. Vậy xin trích lấy tiền công, giao cho bộ Công đứng ra lo làm…”.
Tuy nhiên, chi phí cho việc dựng một tấm bia rất tốn kém vì phải chọn loại đá tốt rồi vận chuyển từ Thanh Hóa ra. Nguyễn Quý Đức đã đi quyên góp từ dân và bỏ tiền túi của mình ra chi trả.
Sách “Tục biên công dư tiệp ký” có viết: “…Trải hai năm công việc mới xong, phí tổn tới hàng vạn mà triều đình chỉ ban cho 1.000 quan tiền, còn thì đều do gia đình ông chi ra”.
Sau khi trông nom công trình hoàn tất, ông xin nghỉ việc. Trong tờ khải dâng lên chúa Trịnh, ông viết: “Nghĩ mình được lạm gánh trách nhiệm nặng nề, thẹn không xứng đáng làm men để chế rượu, làm muối để pha canh… Tự xét lại, đức của thần còn kém xa các bậc tiên hiền, may trời ban cho được đến tuổi trí sĩ, thế mà không biết noi theo việc làm của tiên hiền, treo mũ cáo lão, thì e có cản trở đến đường lối đi tới của người hiền và không khỏi bị tiếng chê là luyến tiếc quyền vị”.
Triều đình đánh giá cao tài năng của ông, muốn giữ ông lại làm quan, ông phải ba lần làm khải dâng chúa mới được chấp nhận. Ngày về hưu, ông được vua Lê tự tay ban cho bốn chữ “Thái sơn Bắc đẩu”, hàm Thái phó Quốc lão.
Về hưu nhưng thường cứ ngày mồng Một và Rằm, Nguyễn Quý Đức đều đến Quốc Tử Giám giảng tập cho học trò. Ông lại ra đồng bàn luận công việc với dân làng, lấy 10 mẫu đất được triều đình ban cho đem tặng dân làng, trong đó dùng 4 mẫu để mở chợ Thánh Nguyên, tức chợ Mỗ ngày nay.
Ba đời giảng quan, hai đời Tể tướng
Hổ phụ sinh hổ tử, người con trai cả của Nguyễn Quý Đức là Hoàng giáp Nguyễn Quý Ân – người học giỏi nổi tiếng đương thời. Năm 21 tuổi Quý Ân đỗ Hương cống, 25 tuổi đỗ khoa Sĩ vọng và được tuyển vào làm Thị nội văn chức, 30 tuổi làm nội giảng ở Quốc Tử Giám.
Năm 1715, Quý Ân đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp), vào Hàn lâm viện lĩnh chức Bồi tụng, được giao viết 4 văn bia ở Quốc Tử Giám trong tổng số 21 bia mới được xây dựng.
Bút pháp của Quý Ân được xếp vào hàng đầu, qua các kỳ khảo sát quan lại trong triều đình đều đạt loại nhất, nên chúa Trịnh Cương giao nhiệm vụ Quốc sư dạy con trai là Trịnh Giang.
Trong thời gian ở nhà cư tang cha, Quý Ân bị bệnh rồi qua đời ở tuổi 50. Triều đình ra sắc chỉ định rõ: “Người giữ trọng trách Quốc sư, vua chúa đang được trông cậy, giúp rập rất nhiều thì nay không còn nữa, thật xiết bao đau xót”, truy tặng Thượng đẳng phúc thần, phong Đại vương.
Người cháu đích tôn của Nguyễn Quý Đức là Nguyễn Quý Kính (con trưởng của Nguyễn Quý Ân) đỗ Hương cống năm 22 tuổi, được tuyển vào thị nội văn chức, rồi thăng Lễ bộ lang trung thời vua Lê Dụ Tông, đến 40 tuổi làm Thái học tự khanh, dạy em chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh, rồi giữ chức Bồi tụng.
Sử liệu chép rằng, chúa Trịnh Giang chơi bời quá độ, sinh bệnh ốm đau cần nơi vắng vẻ để điều dưỡng. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ làm nhiều điều ngang trái, hãm hại đại thần, hình phạt dữ dội, khiến dân loạn lạc.
Nhiều người tập hợp lại chống nhà chúa. Trịnh Doanh không dám quyết vì danh chưa chính, ngôn chưa thuận. Nguyễn Quý Kính thực hiện nguyện vọng của bà Vũ thứ phi khuyên Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang trừ hết bọn gian thần cho yên cuộc loạn.
Quý Kính vận động đại thần phò Trịnh Doanh lên ngôi chúa, sai em ruột là Vệ úy Nguyễn Quý Thường đưa hương binh bảo vệ kinh đô. Quý Kính chia binh giữ các cung điện và các cửa ngõ trong thành. Bọn hoạn quan ở cung Thưởng Trì được tin, tập hợp lực lượng đánh Quý Cảnh và tôn Trịnh Giang làm chúa như cũ nhưng bị hương binh của Quý Cảnh đánh bại, giết sạch.
Về sau Nguyễn Quý Kính làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, làm Tham tụng (Tể tướng). Ông có công lớn được người đời nhớ mãi, do đã cùng Vũ Công Tể đi tới nhiều nơi khuyên dân làm ruộng, trồng dâu, chiêu dụ những dân phiêu tán đi khai khẩn ruộng hoang, tạo được sự no đủ, bình an cho muôn dân.
Năm 65 tuổi, Nguyễn Quý Kính theo gương ông nội xin về hưu, sau nhiều lần mới được chấp nhận. Nhưng chỉ một năm sau triều đình lại mời về xếp vào bậc Ngũ lão. Khi Quý Kính qua đời, vua Lê chúa Trịnh đến khóc thảm thiết, phong Đại vương, Thượng đẳng Phúc thần, sắc cho các làng trong Tổng Mỗ thờ làm Thành hoàng.