Vị vua nước Việt nào đã xuống chiếu tự trách tội mình?
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vua Lê Thái Tông có tên thật là Lê Nguyên Long và là con thứ hai của Thái Tổ Cao hoàng đế. Mẹ là Cung Từ Cao hoàng hậu Phạm thị, người hương Quần Lai, huyện Lôi Dương, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 20/11/1423 âm lịch, tại Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Lúc ông được sinh ra, Lê Thái Tổ hoàng đế vẫn đang lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân xâm lược nhà Minh. Khi Thái Tông 3 tuổi, Phạm hoàng hậu qua đời và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vẫn chưa kết thúc. Lúc đó Quận Ai vương Lê Tư Tề, con trưởng của Lê Thái Tổ đã trưởng thành và tham gia vào việc quân với cha.

Lê Thái Tông lên kế vị khi mới 11 tuổi nhưng đã tỏ ra là vị hoàng đế anh minh. Bấy giờ, mâu thuẫn trong triều nổ ra giữa những khai quốc công thần, đứng đầu là Đại tư đồ Lê Sát cùng Lê Ngân và bên kia là các quan xuất thân khoa Bảng. Dù còn ít tuổi nhưng Thái Tông hoàng đế là người thông minh, quyết đoán, đủ bản lĩnh đối phó với những vấn đề phức tạp của triều đình.
Ông trọng dụng các đại thần chính trực như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt và giáng chức những quyền thần như Lê Sát, Lê Ngân. Vua Lê Thái Tông còn đích thân dẹp trừ các tù trưởng họ Cầm, giặc Nghiễm và Ai Lao vào năm 1439, 1441. Và sử thần Ngô Sĩ Liên đã từng đánh giá vua Lê Thánh Tông là một bậc hoàng đế anh hùng.
Năm 1434, Lê Thái Tông đã ra chiếu cho bá quan văn võ, nội dung như sau: Đạo làm tôi cốt yếu ở hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành, thế thôi. Tất cả các quan được trẫm tin dùng, nếu có ai không hết lòng trung thành, bỏ bê phận sự thì nhà nước đã có luật pháp. Mới rồi, tìm người hiền để giúp việc trị nước đã có lệnh cho mọi người tiến cử người mình biết. Nay đã lâu rồi mà chưa có ai theo lệnh tiến cử một người nào để đáp lại lòng trẫm là cớ làm sao?
Sau đó 4 năm, theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vào ngày 27/5 năm Mậu Ngọ – 1438, khi ấy có nhiều thiên tai xảy ra, Lê Thái Tông đã xuống chiếu tự trách tội mình với nội dung như sau:
Mấy năm nay hạn hán, sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện. Khoảng tháng 4, tháng 5 năm nay, nhiều lần sét đánh vào vườn cây trước cửa Thái miếu ở Lam Kinh. Cứ nghiệm xét việc xảy ra tai họa, nhất định là có nguyên do trong đó. Có phải do trẫm không lo sửa đức để mọi việc bê trễ hay là do quan tể phụ bất tài xếp đặt không điều hòa? Hay là dùng người không đúng, để người tốt, kẻ xấu lẫn lộn? Hay là hối lộ công khai mà việc hình ngục có nhiều oan trái? Hay là làm nhiều công trình thổ mộc để sức dân mỏi mệt? Hay là thuế khóa nặng nề mà dân túng thiếu?
Trẫm tự trách tội mình, đại xá cho thiên hạ. Tất cả các đại thần, các quan văn võ nên chỉ ra những lầm lỗi kể trên, cứ thẳng thắn nói hết, đừng kiêng nể gì. Nếu có điều gì tiếp thu được, nhất định sẽ khen thưởng cất nhắc, dẫu có ngu đần vu khoát, cũng không bắt tội. Ngõ hầu có thể lay chuyển lòng trời, chấm dứt được tai biến, để nước nhà mãi mãi hưởng phúc lớn vô cùng vậy.
Viết về vua Lê Thái Tông, trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn chép rằng: Vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp di địch… Lê Thái Tông là bậc hùng tài đại lược, quyết đoán chủ động. Khi mới lên ngôi, nghiền ngẫm tìm phương trị nước, đặt chế độ, ban sách vở, chế tác lễ nhạc, sáng suốt trong chính sự, thận trọng việc hình ngục, mới có mấy năm mà điển chương văn vật rực rỡ đầy đủ. Đất nước đã đổi thay tốt đẹp… Và trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến ở nước ta, không có mấy vị vua được chính sử lưu lại những điều tốt đẹp như vậy.
Tuy nhiên, với lời nhận xét như trên vẫn là chưa đủ về ông. Bởi với vua Lê Thái Tông còn đức tính nữa mà hậu thế phải kính nể, tôn vinh và không được phép quên. Là dù ông ở ngôi cao tột đỉnh vẫn chuộng lời nói thẳng, mong muốn sửa mình khi nhận ra những sai lầm. Thậm chí thấy cảnh người dân khổ sở vì thiên tai, bệnh dịch đã tự trách tội, nhận lỗi bởi cho rằng mình vẫn chưa làm tròn bổn phận. Vâng, bài học “tự phê bình” thật khách quan và vô cùng cầu thị của tiền nhân cách đây gần 600 trăm năm vẫn còn nguyên giá trị. Và chính điều này đã góp phần làm cho tên tuổi của vua Lê Thái Tông sống mãi với non sông nước Việt.