Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, trong suốt quãng đời làm quan của mình, Thân Văn Nhiếp đã có tới 7 lần dâng sớ để can gián các vị vua nhà Nguyễn. Tờ sớ thứ ba mà Thân Văn Nhiếp dâng lên vua Tự Đức là vào năm Bính Dần (1866). Lúc này ông đang giữ chức Tuần phủ. Vì nghe tin ở kinh thành Huế có cuộc nổi dậy của binh lính và dân phu đang xây Vạn Niên Cơ (lăng mộ của vua Tự Đức – thời phong kiến, các vị hoàng đế thường chuẩn bị trước nơi yên nghỉ của mình), do Đoàn Trưng cầm đầu, Thân Văn Nhiếp vội vàng dâng vua tờ sớ với nội dung như sau:
– Thần nghe có trải sự ngang trái, bậc quân tử mới tỏ được cái đức của mình. Nhà nước ta từ tám chín năm nay luôn có biến cố, trong thì lụt lội, hạn hán và dịch tật, ở ngoài thì cả phía Nam và phía Bắc đều bị giặc xâm lấn tơi bời, khiến triều đình phải bồi thường chiến phí và cấp đất cho giặc. Đây chính là lúc kẻ làm tôi, làm con phải dốc sức hiến thân và cũng là lúc vua nên nằm gai nếm mật. Thế mà, thấy những việc tai biến lại cho là ngẫu nhiên, chưa hề được thực tâm tu tỉnh hay bổ cứu. Nay, pháp lệnh thay đổi, chỉ so đo về lợi lộc, chẳng thấy lo tính việc xa. Gần đây, ngay cả ở kinh sư mà còn có nghịch án lớn xảy ra. Thế mới biết biến cố xảy ra có thể ở bất cứ chỗ nào, từ bất cứ việc gì, cho nên, ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì cũng đều phải kính cẩn.
Trong Kinh thư có câu: Oan không tự sinh ra ở nơi sáng tỏ, cho nên khi chưa có nỗi oan cũng phải có toan tính đến lúc có nỗi oan vậy. Chính sự của ta hay dở thế nào, nước láng giềng đều có thể lợi dụng kẽ hở để can thiệp, thật đáng sợ lắm. Nơi cung khuyết chín tầng tôn nghiêm, xin bệ hạ hãy dốc lòng cố gắng. Hãy thương lấy xứ Nam kỳ đang bị giặc phá hủy. Khi ăn của ngon vật lạ thì hãy xem thổ sản ở Nam kỳ có còn hay không. Khi ngắm nghía lầu gác ở lăng tẩm rực rỡ thì xin hãy nghĩ đến mồ mả của dân Nam kỳ đã bị giặc phá. Lúc vỗ về dân ở chung quanh kinh đô thì xin hãy nghĩ đến Nam kỳ, xem có ai cầu khẩn không…
Nghĩ đi rồi nghĩ lại, việc tự nhiên có thể cảm hóa lòng thánh thượng, khiến có thể lo xa, bỏ việc không cần kíp, ban hành chính sách tốt đẹp, dùng người và dùng quân đều kiệm ước, tránh xa xỉ, đẩy xe xa vết cũ, thì tất cả sẽ tốt đẹp. Nhưng, trước hết xin hãy bỏ việc đi Đông đi Tây, triệu những người sai đi mua vật phẩm trở về, rút hết tàu thuyền về cửa Thuận An để lo phòng bị, tuần tiễu. Với những binh lính bị sai làm các việc, xin hãy khoan thư cho họ, chớ có đốc thúc, chỉ mong sao để họ thực tâm làm. Tốt lan tới đâu, lòng người sẽ vui thuận đến đó. Lòng người đã vui thuận thì trời đất ắt cũng giúp cho, khiến cho gốc của nước được vững bền và yên ổn mãi mãi.
Người xưa có câu rằng: Có vượt được hoạn nạn mới dựng được nước, có lo nghĩ nhiều mới có thánh đức, đại để là như thế. Nếu bệ hạ coi lời ấy là tầm thường thì mối lo về sau chưa hẳn đã dứt. Thần tuổi già lại bệnh hoạn, há dám nghĩ đến việc rút lui, chẳng qua vì tấm lòng khuyển mã, không thể không dâng lời đó thôi. Cúi mong bệ hạ rủ lòng thương mà soi xét, nếu được chỗ nào thì xin mau cho thi hành, nếu cho là lời nói càn thì xin đem cách chức, phận làm tôi như thần không dám trách cứ gì.
Tờ sớ này được vua Tự Đức khen, nhưng vẫn không cho thi hành.
Tờ sớ thứ tư mà Thân Văn Nhiếp dâng vua Tự Đức là vào năm Đinh Mão (1867). Thấy vua thường ngao du, xem việc xây cất, Thân Văn Nhiếp tâu rằng: Từ xưa, đấng trị nước mà siêng năng, chăm chỉ thì thường lo về sự nguy biến, còn người lười biếng, thích vui chơi thì chỉ thấy sự yên ổn. Thường thấy nguy biến là gốc của thịnh trị, thường thấy yên ổn là gốc của hoạn nạn.
Và cũng trong tờ sớ này, ông đã cực lực phê phán việc xây cất Vạn Niên Cơ và các công trình khác. Vua Tự Đức đã nhận lỗi nhưng không sửa, mà lại còn thăng cho Thân Văn Nhiếp được chính thức làm tổng đốc!
Lời bàn:
Người xưa có câu: “Nói thật mất lòng”, nhưng “Thuốc đắng dã tật” nên vì giang sơn và vì cuộc sống của trăm họ, Thân Văn Nhiếp đã không ngại bị nhà vua trách mắng, không sợ bị rơi đầu mà đứng ra dâng sớ can gián nhà vua không chỉ một hoặc hai lần. Xin không bàn đến nội dung những tờ sớ của ông, mà chỉ với bảy lần can ngăn nhà vua cũng đủ biết ông là một vị quan cương trực, một lòng trung quân ái quốc. Và chính điều ấy mà các sử gia đương thời cũng như ngày nay phải thừa nhận ông hơn hẳn cha mình là Thân Văn Quyền. “Con hơn cha là nhà có phúc”, mà nhà nhà có phúc thì quốc gia đại phúc.
Vẫn biết quy luật ở đời là thế, nhưng tiếc thay vua Tự Đức khi đó đã không nhận ra điều này. Chính vì thế mỗi lần nhận sớ của Thân Văn Nhiếp là mỗi lần vua Tự Đức nhận ra lỗi lầm của mình, nhưng lại không chịu sửa. Tự mình khó nhận ra những sai lầm, khiếm khuyết của mình, nhưng được người khác chỉ cho cái sai, cái xấu mà không sửa thì thật đáng trách. Thế mới hay rằng, tự kiểm điểm, tự phê bình nếu không có người khác giúp thì hiệu quả không cao. Khi có người khác chỉ cho mình thấy rồi sửa chữa kịp thời thì hiệu quả sẽ còn cao hơn nữa và chắc chắn sẽ không bao giờ mắc phải những lỗi lầm tương tự.